Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013

"Hà Nội, mùa đông năm 1946"

318654_10151360279058322_33097527_n.jpg
30-12-2012. Trời lạnh, tự nhiên nghĩ tới những câu chuyện kể về “Hà Nội, mùa đông năm 1946”….
DÂN VẬN
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, Đảng CS nhận thức rất sớm vai trò của dân vận. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Với tinh thần đó, công tác vận động tuyên truyền của Đảng CS ngay từ thời Mặt trận Việt Minh đã rất tốt. Trước và sau ngày khởi nghĩa cướp chính quyền tại Hà Nội (19-8-1945), người dân nô nức tham gia Việt Minh và mong muốn được trở thành đảng viên cộng sản. Bà Lê Thi tức Dương Thị Thoa, con gái cố GS Dương Quảng Hàm, còn kể lại rằng: “Hồi đó hầu như ai ai cũng ghi danh xin đăng ký vào một tổ chức nào đó của Việt Minh, như là Thanh niên Cứu Quốc, Phụ nữ Cứu Quốc. Tới lúc nghe tin Đảng Cộng sản phải tự giải tán, chúng tôi còn khóc nức nở”.
Tháng 12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Người dân ở đô thị thực hiện sơ tán về nông thôn để tránh thiệt hại, bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài. Khi đi sơ tán, một số gia đình khá giả ở nội thành đã đem theo ô-tô riêng. Vì không nắm vững chủ trương chính sách nên một số đơn vị và địa phương đã tự ý trưng thu, trưng dụng xe cộ của dân. Trước tình hình đó, ngày 17-2-1946, Cục Chính trị ra Thông tri gửi toàn quân, trong đó nhấn mạnh phải làm theo đúng khẩu hiệu “vì dân và cùng dân kháng chiến”. Thông tri nêu rõ: “Chỉ cần thiết lắm mới dùng đến quyền hạn trưng thu, trưng dụng, trưng tập, nhưng cách dùng quyền hạn đó sao cho khéo léo, được việc chung mà dân chúng không bất bình”, “Nghiêm trị những kẻ lợi dụng làm bậy phá hoại công tác bảo vệ dân chúng của chúng ta”.
Ngày 8-1-1947, Cục Chính trị tiếp tục ra chỉ thị về công tác dân vận, trong đó nhấn mạnh: “Cho bộ đội hành quân tuyên truyền cổ động kháng chiến; úy lạo dân về sự tàn phá do Pháp gây ra ở nơi đã xảy ra và nơi chưa xảy ra; công tác giúp dân phòng máy bay; giải thích cho dân cần giữ bí mật và đề phòng Việt gian; dạy dân học chữ quốc ngữ, tập quân sự…”.
Ở đây, điều cần nói là phương tiện kỹ thuật của chúng ta thời đó cực kỳ kém; các hình thức tuyên truyền chỉ là mít tinh, diễn thuyết, ca kịch, bích báo, được thực hiện bởi bộ đội hành quân hoặc các tổ nhóm văn nghệ văn công. Nhưng hiệu quả thì lại không hề nhỏ. Công tác vận động tuyên truyền ngày ấy, cộng với tinh thần hăng hái của một dân tộc vừa mới giành được độc lập, thậm chí đã tạo ra một phong trào “cả nước lên đường”. Một trong những văn nghệ sĩ tham gia vào hoạt động tuyên truyền bằng lời ca tiếng hát thời kỳ ấy, nhạc sĩ Phạm Duy, hồi tưởng rằng: “Từ tháng 8-1945, tôi đã thấy không khí bừng bừng của Cách Mạng kéo nhân dân cả nước ra đường. Từ đêm 19 tháng Chạp 1946 trở đi, tôi thấy không khí rừng rực của kháng chiến đẩy toàn thể nhân dân ra đi” (trích "Hồi ký Phạm Duy"). “Ra đi” nghĩa là cả nước lên đường tranh đấu, tham gia “cuộc phiêu lưu của một dân tộc đang thay thịt đổi da, đang xuống đường, lên đường trong tất cả ý nghĩa tuyệt vời của những danh từ đó”.
Việc dân vận tuân theo chủ trương phải kết hợp chặt chẽ với giúp đỡ dân (dạy chữ quốc ngữ, phòng máy bay). Bộ đội được yêu cầu thực hiện tốt khẩu hiệu “Kính trọng dân, bảo vệ dân, giúp đỡ dân”.
… VÀ ĐỊCH VẬN
Bên cạnh dân vận, địch vận cũng được Đảng và Chính phủ xem là phần quan trọng trên mặt trận chính trị, theo tinh thần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh mà thắng địch là giỏi, không đánh mà thắng địch càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng địch là nhờ địch vận”.
Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ nhất (tháng 3-1935), nghị quyết về công tác địch vận đã cho thấy sự quan tâm và thấu hiểu của những nhà lãnh đạo cộng sản đối với tình cảnh của binh lính người Việt ở Đông Dương: “Binh lính là tôi tớ của quan binh; chúng nó có quyền đánh đập, giam phạt lúc nào cũng được… Họ không có quyền tổ chức vào các đoàn thể cách mạng, không có tự do ngôn luận, hội họp, tham gia sinh hoạt chính trị”. Từ thời điểm đó, Đảng đã có một nhận định nhân văn và sáng suốt: Binh lính không phải là nghịch thù của giai cấp công nông, mà là con em của công nông và là một lực lượng cách mạng rất lớn, nếu Đảng không tổ chức được họ, không kéo được họ về phía mình, thì cách mạng sẽ không thể thành công.
Tinh thần này đã là kim chỉ nam cho các hoạt động địch vận về sau trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Chẳng hạn, đối với binh lính người Việt chiến đấu trong hàng ngũ đối phương, Đảng chủ trương huy động ở mức cao nhất tất cả những hoạt động tuyên truyền: hô khẩu hiệu khi chiến đấu, ném truyền đơn, viết và dán biểu ngữ, dùng lính địch gọi hàng đồng đội v.v. Đặc biệt, phải biệt đãi tù binh, coi đó là một nhiệm vụ của công tác chính trị, thậm chí ra nghiêm lệnh cho bộ đội không được giết tù binh.
Đối với hàng binh người Âu, Đảng cũng chủ trương phải chăm sóc chu đáo, giao cho họ những việc thích hợp với năng lực để tận dụng khả năng của họ, giác ngộ chính trị cho họ để tạo ra một lực lượng “bộ đội ngoại quốc” chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam… Với chính sách này, trong những năm kháng chiến chống Pháp, đã có những người châu Âu đảo ngũ sang phía Việt Minh và rồi thật sự trở thành người bạn của Việt Nam.
* * *
Nhìn lại, công tác dân vận, địch vận thực sự đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Mục tiêu “ba đoàn một tan” (đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế, làm tan rã kẻ thù) đã chứng tỏ là một chính sách sáng suốt, đồng thời cũng khẳng định một bài học có tính chất chân lý: Những nhà lãnh đạo hết lòng vì đại đoàn kết dân tộc, lấy thu phục nhân tâm làm trọng, sẽ có được sự ủng hộ của nhân dân trong cuộc đấu tranh với bất kỳ kẻ thù nào.

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"