Hoàng Sa ơi, Việt Nam ơi,
Hoàng Sa mãi mãi của
người Việt ta
Ðừng ai vô cảm Hoàng Sa
Ðể mà mang tội ông cha
muôn đời
Cũng đừng làm nước suy
đồi,
Lịch sử phán xét ôi
thôi còn gì!
Mỗi người kế hoạch khả
thi
Sao cho nội lực ai bì
kịp ta!
Xâm lăng, tàm thực
tránh xa
Ðừng hòng làm nhục nước
nhà Việt Nam,
Biển Ðông bắt nạt ngư
dân!
Ðừng hòng xử ép, nào
thân nỗi gì!
Tháng 8 năm 2011, tôi cùng nhà cựu
ngoại giao Dương Danh Dy nói chuyện về Hoàng Sa & Trường Sa tại
Trường Ðại Học Ngoại Thương ở Hà Nội. Một nữ sinh viên đã phát biểu một
câu nói bất hủ: “Bất cứ ai vô cảm với Hoàng Sa & Trường Sa đều có
tội với Tổ tông và dân tộc,” sau khi nghe tôi nói: “Bất cứ ai làm cho
đất nước suy hèn đều có tội với Tổ tông và dân tộc!
Tôi cũng
đã từng nói: “Sự thật lịch sử chỉ có một. Lịch sử rất công bằng và
nghiêm khắc với bất cứ ai kể cả nhà sử học!”
Gần đây
xảy ra câu chuyện giữa một du học sinh Việt Nam với các du học sinh
Trung Quốc, du học sinh Việt Nam trên đã tỏ ra rất lúng túng khi trao
đổi về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Ðông!
Từ hồi
tôi còn trẻ, hơn 30 tuổi cho đến nay đã bảy mươi tư tuổi, tôi vẫn đeo
đuổi đi tìm sự thật về chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa.
Ngày 20
tháng 1 năm 1975, nhân kỷ niệm một năm ngày Trung Quốc dùng võ lực cưỡng
chiếm Hoàng Sa, tôi cùng Võ sư Trần Huy Phong và GS Ngô Gia Hy tổ chức
triển lãm trưng bày tư liệu lịch sử minh chứng chủ quyền Việt Nam tại
Hoàng Sa & Trường Sa ở Thư viện Quốc Gia tại Sài Gòn. Với tính cách
trưởng ban tổ chức, tôi phát biểu, đã xúc động không cầm được nước mắt
và như Báo Sóng Thần hồi ấy đưa tin mọi người ôm nhau khóc ròng!
Trong
cuộc hội thảo quốc tế về Biển Ðông lần thứ ba tại Hà Nội cuối năm 2011
vừa qua, một học giả Trung Quốc đã phát biểu rằng trong các thế kỷ vừa
qua Trung Quốc đã bị các nước phương Tây xử ép và làm nhục; thời nay đã
khác và kêu gọi các nước Á Ðông đoàn kết với Trung Quốc! Tức thì tôi đã
phát biểu rằng vậy thì Trung Quốc có chia sẻ với Việt Nam đang bị xử ép
và làm nhục không? Cũng trong hội thảo quốc tế trên, để phản bác một học
giả khác của Trung Quôc phát biểu rằng sự kiện Trung Quốc đăng ký với
Ủy ban Ðăng ký Thềm lục địa LHQ “Ðường lưỡi bò” ở Biển Ðông chỉ là sự kế
thừa lịch sử.
Tôi đã
hỏi rằng vậy quí học giả đã kế thừa, tiếp cận được hay không sự kiện
lịch sử năm 1909, chính quyền Quảng Ðông cho là Paracels tức Hoàng Sa là
đất vô chủ (res-nullius), đã tổ chức chiếm hữu theo phương cách phương
Tây như đem tàu chiến đến bắn 21 phát súng, cắm cột mốc chủ quyền... và
đã tiếp cận được hay không biết bao tài liệu của phương Tây bằng nhiều
thứ tiếng Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha,... Paracel đã thuộc về
từ lâu chủ quyền của xứ An Nam hay Cochin China - Xứ Ðàng Trong của Ðại
Việt hay chưa? Và có biết đến luận án tiến sĩ sử học của tôi về “Quá
trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa” hay
không? Và để lấp đầy sự khác biệt về lịch sử, tôi đề nghị nên có một hội
thảo quốc tế về chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa.
Ngày 16
tháng 6 năm 2012, từ Việt Nam ,mặc dù tuổi đã cao, tôi vẫn cố lặn lội
đến Boston, chỉ cốt nói với các du học sinh tại trường Ðại Học Harvard,
một đại học uy tín chất lượng cao nổi tiếng trên thế giới về sự thật
lịch sử chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa với ước mong các bạn du
học sinh ở trường Harvard giúp tôi hoàn chỉnh bản tiếng Anh hơn 500
trang hồ sơ tư liệu về chủ quyền củaViệt Nam tại Hoàng Sa & Trường
Sa, cùng giúp tôi đưa đến các thư viện có trong danh sách mà năm 1960,
Headquarters, U.S. Pacific Broadcasting and Visual Activity AP0331 đã
gửi tài liệu “Analysis on The Spratley-Paracel Islands Dispute,” no
010660.
Trong hơn
500 trang tư liệu kể trên,tôi chỉ mong các bạn lưu ý, tập trung thảo
luận và quảng bá 3 thông tin chi tiết cụ thể sau đây:
Một là
Ðại Việt sử ký tục biên (1676-1789) do các sử thần thời Lê-Trịnh biên
soạn theo lệnh của Trịnh Sâm năm 1775, đã nói rõ về hoạt động của đội
dân binh Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải và có đoạn viết: “Ðặt đội Hoàng
Sa gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào đội ấy, cắt lượt nhau đi
thuyền đến đảo mò tìm sản vật. Mỗi năm cứ Tháng Ba ra đi, mang lương ăn
sáu tháng, đi thuyền ra biển ba ngày ba đêm mới đến đảo...,” “Họ Nguyễn
lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở
Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy
sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ
ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của
tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội
Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của
quý ít khi lấy được... (quyển 2, từ tờ 82b-85a).
Hai là
Ðại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, quyển 52 (đời vua Gia Long) một
lần nữa lại ghi rõ ràng: “Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long thứ 15
(1816), vua Gia Long ra lệnh cho thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra
Hoàng Sa để xem xét và đo đạc thủy trình...” Trong khi những tài liệu
của những người phương Tây từng hoạt động trong Triều Gia Long như
Chaigneau, Taberd đã công bố những hành động của vua Gia Long cụ thể
hơn. Chaigneau, đã viết trong hồi ký “Le mémoire sur la Cochinchine”
“Chỉ đến năm 1816, đương kim hoàng đế đã chiếm hữu quần đảo ấy” hay Giám
Mục Taberd viết: “Chính là vào năm 1816 mà ngài (vua Gia Long) đã long
trọng cắm tại đó lá cờ của xứ Ðàng Trong. Gutzlaff năm 1849 đã cho biết
chính quyền Việt Nam thời Gia Long đã thiết lập một trại quân nhỏ để thu
thuế và bảo trợ người đánh cá Việt Nam.” Ðặc biệt năm 1838, Giám Mục
Taberd đã vẽ bản đồ có tọa độ An Nam Ðại Quốc Họa Ðồ đính kèm trong cuốn
tự điển Latin-An Nam ghi rõ Paracel seu Cát Vàng; seu tiếng Latin có
nghĩa hay là.
Ba là
phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836 ) trong
tập châu bản Minh Mạng 55 trang 336, ghi lời châu phê của vua Minh Mạng:
“Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc)
dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ: “Năm Bính Thân (Minh Mạng
thứ 17), họ tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng
Sa để lưu dấu.” Vua cũng phê rằng, “thuyền đi đâu, phải cắm cột mốc đến
đó để lưu dấu. Phúc tấu cũng còn ghi chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật
được phái từ Thuận An vào Quảng Ngãi để đi công tác Hoàng Sa.
Trong khi
chính sử, Ðại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 165 (đời vua
Minh Mạng), viết rất rõ quan điểm của Bộ Công và hoạt động của Bộ này
tại Hoàng Sa: “Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) (năm Ðạo
Quang thứ 16 đời nhà Thanh) Bộ Công tâu: ‘Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực
mặt biển nước ta, rất là hiểm yếu, từng sai vẽ bản đồ riêng về hình thế
xa rộng, ta mới chỉ vẽ được một, rồi lại cũng chưa biết vẽ nên làm thế
nào. Hàng năm, thường phái người đi xem xét cho khắp để thông thuộc
đường biển. Xem từ năm nay về sau, mỗi khi đến hạ tuần Tháng Giêng, chọn
phái thủy quân biền binh và giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô nhằm thượng
tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, giao cho 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình
Ðịnh, thuê 4 chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng Sa. Không cứ là
đảo nào, bãi cát nào, phàm khi thuyền đến nơi, tức thì cứ chiếu chiều
dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, và nước biển, bãi biển xung
quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở
bình dị thế nào, phải xem xét đo đạc rõ ràng, vẽ thành bản đồ...’’” Ðại
Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 165 còn chép: “Vua Minh Mạng
đã y theo lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật điều
binh thuyền đi đem theo 10 cái bài gỗ dựng bàn dấu mốc, chủ quyền.” Mỗi
bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ Hán:
“Minh Mạng thập thất niên (1836), Bính Thân, thủy quân chánh đội trưởng
suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa đương độ chí thủ lưu chí
đẳng tự.”
Với kiến
thức về pháp lý quốc tế từ đầu thế kỷ đến nay cùng những thông tin lịch
sử cụ thể trên thì chắc chắn các bạn không thể lúng túng khi tranh luận
với các bạn trẻ Trung Quốc về Hoàng Sa & Trường Sa. Dù thế nào đi
chăng nữa, dù lý của kẻ mạnh như thế nào chăng nữa thì lịch sử dân tộc
ta không cho phép chúng ta hèn yếu. Như tôi đã từng nói: “Muốn lấy lại
Hoàng Sa, giữ những gì còn lại của Trường Sa thì mỗi người Việt Nam phải
có một kế hoạch nhỏ xây dựng nội lực đất nước hùng cường.”
Ðầu thế
kỷ 20, cụ Phan Bội Châu đã khởi xướng phong trào Ðông Du hầu canh tân
đất nước hùng cường để cứu nước. Nay chúng ta đang có phong trào thế
giới du. Không có cách nào khác, trước những nguy cơ chưa từng có tại
Biển Ðông, các bạn trẻ Việt Nam không phân biệt chính kiến, hãy cùng
nhau dẹp bỏ những gì “xấu xí” của người Việt như quá ham những tư lợi
hại nước hại dân, thiếu đoàn kết, đố kỵ khích bác lẫn nhau... mà phải có
lòng yêu nước chân chính có tâm, có tầm như người Nhật Bản để cùng nhau
xây dựng nội lực đất nước hùng cường. Mong vậy thay!
Hãn
Nguyên Nguyễn Nhã, Tiến sĩ Sử học
Email: hannguyen1940@yahoo.com