Dương Danh Huy
Gửi cho BBC từ Oxford, Anh quốc
Gửi cho BBC từ Oxford, Anh quốc
Luật Biển 2012 có vẻ toàn diện và và kỹ lưỡng hơn các luật và tuyên bố trước đây
Quốc hội Việt Nam vừa thông qua Luật Biển. Với tình hình
tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông, đây là đạo luật mà nhiều
người Việt Nam mong đợi. Trên cơ sở đạo luật này còn có thể thay đổi
trước khi được ban hành, đây là một số nhận xét ban đầu về văn bản Luật
Biển.
Luật Biển 2012 có vẻ toàn diện và và kỹ lưỡng hơn các văn bản và
tuyên bố trước đây của Việt Nam về chủ quyền và chế độ pháp lý các vùng
biển. Có lẽ ba yếu tố đã dẫn đến điều đó.
Thứ nhất, sau khi Công ước Luật Biển của LHQ ra đời cách đây 30 năm
thì trật tự đại dương trên thế giới ngày càng trở thành rõ ràng hơn. Vì
Quốc Hội Việt Nam đã phê chuẩn Công ước năm 1996, Việt Nam cũng phải có
luật pháp thích hợp cho việc hoàn thành những nghĩa vụ của mình đối với
Công ước và để bảo đảm sự tôn trọng đối với Công ước.
Thứ nhì, Việt Nam ngày càng hội nhập hơn với thế giới, cho nên phải
áp dụng luật quốc tế nhiều hơn, và chắc chắn là khả năng của Việt Nam
trong lãnh vực luật quốc tế ngày càng được phát triển hơn.
Thứ ba, trong bốn năm qua, các động thái của Trung Quốc, bắt đầu từ
việc gây áp lực với BP, đã làm cho tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và
Biển Đông trở thành một trong những vấn đề an ninh hàng đầu cho Việt Nam
– vì thế Việt Nam phải đầu tư nhiều hơn vào việc soạn thảo Luật Biển để
làm sáng tỏ thêm quan điểm của mình.
Điểm đặc biệt
Điểm đặc biệt nhất là Điều 1 ghi cụ thể quần đảo Hoàng Sa, quần đảo
Trường Sa là thuộc chủ quyền Việt Nam và Điều 2 ghi nếu quy định của
Luật Biển khác với quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Hai điều lệ đầu tiên đó phản ảnh chiến lược của Việt Nam về biển đảo:
về đảo thì giữ vững quan điểm đảo là của Việt Nam, về biển thì tuân thủ
Công ước Luật Biển của LHQ, một điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên.
Điều đáng chú ý là đạo luật có uy quyền nhất về chế độ pháp lý của
các vùng biển Việt Nam đã tự đặt mình dưới các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên, mà liên quan nhiều nhất trong văn cảnh này là Công
ước Luật Biển của LHQ. Điều đó nói rất nhiều về Việt Nam có nhận định
thế nào về Công ước Luật Biển của LHQ. Chúng ta có thể so sánh với luật
của Trung Quốc về vùng đặc quyền kinh tế trong đó họ thòng thêm một câu
để bảo lưu cái họ gọi là quyền lịch sử, mở ngỏ cửa cho việc Trung Quốc
không tuân thủ Công ước Luật Biển của LHQ.
So sánh với luật biển cũ và với Công ước về Luật Biển của LHQ
Việc Điều 1 ghi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là của Việt
Nam, tuy không phải là một điều mới, nhưng là điều người Việt nào cũng
mong muốn trong tình hình căng thẳng về biển đảo, và có lẽ phần lớn sẽ
tán thành việc nó được làm sáng tỏ một cách cụ thể ngay trong điều lệ
đầu tiên.
Luật Biển này khắc phục một số điểm trong luật và tuyên bố cũ không
phù hợp với Công ước Luật Biển,thí dụ như về quyền đi qua không gây hại
trong lãnh hải 12 hải lý và quyền tự do hàng hải trong vùng tiếp giáp
lãnh hải, nhưng không khắc phục hoàn toàn. Thí dụ như Luật Biển quy định
tàu thuyền quân sự nước ngoài phải thông báo với Việt Nam trước khi sử
dụng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, trong khi Công
ước Luật Biển LHQ không đòi hỏi phải thông báo.
Luật Biển không công nhận quyền đi qua không gây hại cho tàu thuyền
quân sự của nước ngoài trong nội thủy Việt Nam, một quyền có trong Công
ước Luật Biển LHQ, nhưng cũng có ghi nhận trừ trường hợp Công ước Luật
Biển LHQ có quy định khác và tàu thuyền quân sự nước ngoài phải hoạt
động phù hợp với lời mời của hoặc thỏa thuận với Việt Nam.
Điều đáng chú ý mà có thể có ảnh hưởng đến Hoàng Sa, Trường Sa, là
Luật Biển nói cụ thể rằng các đảo đá không thích hợp cho đời sống con
người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa. Đó là một điều khoản của Công ước Luật Biển và
có nghĩa là Việt Nam sẽ không đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
cho một số đơn vị địa lý ở Hoàng Sa, Trường Sa. Ngược lại, Việt Nam vẫn
có thể cho rằng những đảo “thích hợp cho đời sống con người hoặc cho
một đời sống kinh tế riêng” là có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa.
Luật Biển ghi Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam
Luật biển này tiếp tục dùng hệ thống đường cơ sở thẳng Việt Nam tuyên
bố năm 1982, mặc dù hệ thống đó là không phù hợp với Công ước Luật Biển
LHQ và đã bị nhiều nước phản đối. Cần nói thêm là Việt Nam không phải
là nước duy nhất có đường cơ sở thẳng không phù hợp với Công ước Luật
Biển và bị nhiều nước phản đối. Vấn đề là Điều 2 (nếu quy định của Luật
Biển khác với quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó) sẽ có nghĩa gì cho việc
đường cơ sở thẳng của Việt Nam không phù hợp với Công ước Luật Biển.
Phản ảnh Hiệp Định Vịnh Bắc Bộ năm 2000, Luật Biển không còn cho rằng
kinh độ 108 là ranh giới biển Việt Nam-Trung Quốc trong Vịnh.
Dù Việt Nam không phải là một quốc gia quần đảo, Luật Biển cũng sử
dụng định nghĩa “quần đảo” trong phần về các quốc gia quần đảo của Công
ước Luật Biển trong việc đòi chủ quyền đối với quần đảo để đòi “bộ phận
của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên
quan chặt chẽ với nhau”.
Tóm lại, Luật Biển đi sâu sát với Công ước Luật Biển hơn các luật và
tuyên bố cũ, nhưng chưa tuân thủ hoàn toàn. Ngoài ra, Luật Biển còn một
số điểm chưa hoàn toàn rõ ràng, và chưa biết có sẽ có thay đổi gì trước
khi được ban hành hay không.
Trong nhận xét sơ khởi thì các điều lệ khác cho việc quản lý các vùng
biển Việt Nam có vẻ như hợp lý và dựa nhiều trên Công Ước Luật Biển.
Trong đó cũng có một số điều lệ khoản phản ảnh nhu cầu đặc thù của Việt
Nam.
Một thí dụ là, trong khi nghĩa vụ tất nhiên của mọi nhà nước là bảo
vệ các hoạt động hợp pháp của công dân, Luật Biển quy định cụ thể việc
bảo vệ hoạt động thủy sản của ngư dân, và đầu tư bảo đảm hoạt động của
các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên biển. Luật biển cũng
quy định chính sách ưu tiên đối với nhân dân sinh sống trên các đảo và
quần đảo.
Luật Biển quy định giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình,
phù hợp với Công Ước Luật Biển, luật pháp và thực tiễn quốc tế. Như vậy
là bao gồm nhiều biện pháp hơn “kiên trì thông qua hiệp thương hữu
nghị” trong thỏa thuận Việt-Trung về “các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển” năm ngoái. Có lẽ đây cũng là lần đầu tiên luật
Việt Nam quy định cụ thể giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa
bình.
Chờ thời điểm thích hợp hơn
Các chuyên gia của Việt Nam biết rõ một số điểm trong các luật và
tuyên cố cũ không tuân thủ Công ước Luật Biển của LHQ. Họ đã sửa một số
trong những điểm đó, nhưng với một số điểm còn lại thì có lẽ họ đang chờ
thời điểm khác thích hợp hơn. Việc Điều 2 có nghĩa với những trường hợp
Luật Biển quy định khác với Công Ước Luật Biển của LHQ thì áp dụng Công
Ước Luật Biển, là một cách khôn khéo để Việt Nam “chờ thời điểm khác
thích hợp hơn”.
Với nhận xét sơ khởi thì văn bản Luật Biển vừa được thông qua là một
bước tiến pháp lý lớn và có chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc bảo vệ và quản lý
biển, cũng như cho việc tiếp xúc với thế giới trên biển. Tuy nhiên điều
quan trọng là Luật đó sẽ được áp dụng thế nào trên thực tế.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Dương Danh Huy,
một nhà nghiên cứu về Biển Đông, dựa trên văn bản luật mà tác giả
có được, trong khi luật này chưa được chính thức công bố toàn văn.