Phạm Thị Hoài
“Chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh thật khốn nạn. Sau hàng
thế kỉ ngoại thuộc, sau ba chục năm trời nhiễu nhương, nay nước nhà được
thanh bình, dân tộc bắt tay xây dựng đất nước, thì chúng ta lại bỏ xứ
ra đi, chúng ta lại vắng mặt, lại đứng ngoài vòng.”
“Không về được, chúng ta tự thấy sống một đời vô duyên, lãng
xẹt. Cần thì chưa chắc tổ quốc đã cần đến mình; chưa chắc mình sẽ có một
đóng góp nào đáng kể. Những kẻ có ý thức cao nhất về mình cũng không
bao giờ dám tự nhận mình là cả một cần thiết cho quốc gia. Tuy nhiên,
nghĩ rằng ở cái xứ nghèo khó nhỏ bé của mình đồng bào đang rầm rập xây
dựng mà mình không được dự phần vào, tự dưng có một cảm tưởng tưng hửng,
dần dần ngấm thành một đau đớn.”
“Lòng chúng ta lúc nào cũng tha thiết với quê hương, nhưng quê hương lại không còn như xưa. Cho nên chúng ta lâm cảnh bẽ bàng.”
“Về ư? Dẫu có về được, ta đâu còn về để tiếp tục đời sống như
trước, mà chỉ để tăng cường hàng ngũ nô lệ. Đành rằng sống chết không
cần, nhưng đã sống ta lại cam chịu sống như vậy sao? Sống để răm rắp
vâng lời, để suốt đời ca ngợi lãnh đạo sáng suốt, để đem thân trâu ngựa
củng cố một chế độ độc tài, vun bồi quyền lợi của một tầng lớp thống
trị?”
“Bị kẹt dưới chế độ độc tài là đáng thương; còn như quyết định
tự nguyện nhảy vào cúi đầu phục vụ độc tài lại đáng nguyền rủa. Kẹt
cứng! Đồng bào ta, có lớp bị kẹt lại trong nước, có lớp lại bị kẹt… ở
ngoài nước!”
Những dòng trên đây là của một nhà văn miền Nam nổi tiếng, trong tùy
bút “Ngày về” in năm 1987 tại California [1]. Hai mươi lăm năm sau
những tâm sự khắc khoải này và ba mươi bảy năm sau khi rời quê hương,
một phần nhỏ tác phẩm của ông đã trở về. Hai đầu sách, Quê hương tôi và Tạp văn
được Nhã Nam xuất bản tại Việt Nam. Chỉ có điều bút danh nổi tiếng của
ông, Võ Phiến, được thay bằng Tràng Thiên, một bút danh ít người biết
đến.
Tất nhiên điều đó không bình thường. Nó để lại một dư vị không dễ
chịu. Dư vị của ngụy trang. Nhưng ngụy trang là hành vi gắn liền với
toàn bộ sự tồn tại Việt Nam, với tất cả những mặt khuất và điểm sáng của
nó. Ở đây tôi thiên vị các điểm sáng. Chúng ta thử nhìn câu chuyện Võ
Phiến cải tên này qua một sự cố khác, sự cố Chuyện ở nông trại,
tác phẩm lừng danh về những con lợn làm cách mạng để rồi thiết lập
chính cái nguyên trạng mà chúng lật đổ, cũng do Nhã Nam xuất bản không
lâu sau Lolita [2] và Võ Phiến.
* * *
Trong vụ tác phẩm chống toàn trị cộng sản kinh điển
của George Orwell lọt lưới kiểm duyệt ở Việt Nam, công đầu chắc chắn
thuộc về những người làm sách. Tuy không thể cho Chuyện ở nông trại
một sự hiện diện rầm rộ trên truyền thông như với tác phẩm nổi tiếng và
tai tiếng của Nabokov [3], nhưng chỉ riêng việc nó được cấp phép xuất
bản và bản dịch không bị cắt xén đã đủ ngoạn mục. Song trong trường hợp
tác phẩm đặc biệt này, ngoài bản lĩnh và sự dấn thân khéo léo của những
người làm sách, phải có những may mắn khác.
May mắn đáng kê ra đầu tiên là sự dốt nát của bộ máy kiểm duyệt văn
hóa tại Việt Nam. Ai từng làm việc với nó đều vẫn phải sửng sốt dù đã
được nhiều lần báo trước. Trình độ của đại đa số các cán bộ kiểm duyệt
có một quyền quyết định nào đó thường thấp đến mức “hạn chế” còn là một
mĩ từ quá rộng lượng để chỉ. Guồng máy công quyền ở mọi nơi đều là chốn
nương thân lí tưởng cho sự tầm thường, nhưng ở đất nước này guồng máy ấy
do một bàn tay vô hình ưa mỉa mai sắp đặt: hệt như ở các lĩnh vực khác,
tiêu chuẩn của người quản lí văn hóa dường như trước hết phải là không
biết gì về văn hóa. Nghe họ mở miệng – đúng ra phải gọi là mở băng – bạn
sẽ chỉ có một cảm giác duy nhất là tuyệt vọng. Tuyệt vọng khi nghe họ
giải thích, chẳng hạn vì sao Kafka là một “trường hợp có vấn đề”, và
càng tuyệt vọng hơn khi một lúc nào đó, khoảng hai thập niên sau, trái
đất vẫn quay dù chúng ta đứng im, lại nghe họ giải thích vì sao trường
hợp ấy không có vấn đề nữa. Trước một thành trì u mê được dán kín tem
quyền lực như vậy bạn không có cơ hội nào hết. Hoặc là bạn phát điên.
Hoặc là bạn trở thành một nhà hiền triết. Ngoài hai khả năng khá gần
nhau này, bạn còn có thể tê liệt như một lựa chọn dễ dàng hơn. Tôi từng
liệt toàn thân khi lịch sự ngồi nghe một cán bộ tuyên huấn cỡ kha khá kể
chuyện ông ấy đã liều bảo vệ một tác phẩm đang bị “đánh” của tôi như
thế nào. Tư duy của ông ấy – nếu có thể gọi đó là tư duy – không hề bị
xúc phạm trước một chân lý đại loại như: một nhà văn rửa tay trước khi
viết là một nhà văn trong sạch, nhân đạo và tiến bộ. Còn sự đổi mới tư
duy táo bạo của ông ấy nằm ở nhận thức rằng tôi tuy không rửa tay nhưng
vẫn trong sạch, nhân đạo và tiến bộ, vì tay tôi có bẩn đâu mà phải rửa.
Mạng lưới kiểm duyệt thỉnh thoảng thủng ra một hai lỗ, có khi cho cả một
tác phẩm lớn chui vừa, từ sự dốt nát đó. Thuyết phục kẻ giáo điều
thường vô ích. Nhưng một kẻ giáo điều mù tịt đôi khi lại bất ngờ có một
quyết định sáng sủa, vì hắn thậm chí không đủ hiểu biết để ý thức về
quyết định đó của mình.
Những phẩm chất trứ danh khác của bộ máy nói trên là quan liêu, lười
nhác và tắc trách. Tôi đảm bảo rằng nếu thay tên George Orwell bằng
Eric Athur Blair, tên thật của ông, hay H. Lewis Always, một bút danh
khác của ông, và đổi 1984 thành Tấm lòng của người Anh Cả; hoặc nếu thay Arthur Koestler bằng Kösztler Artúr và lấy tên bản gốc tiếng Đức Sonnenfinsternis dịch thành Một vầng nhật thực thay vì dịch theo những nhan đề đã quá nổi tiếng của bản tiếng Anh Darkness at Noon hay bản tiếng Pháp Le Zéro et l’Infini, thì cả hai tác phẩm thuộc hàng chống toàn trị và chống cộng đầu bảng này đều được duyệt êm ru tại Việt Nam và báo Nhân dân sẽ nhiệt tình quảng cáo. Trong trường hợp Animal Farm, rất có thể vụ vỡ đê kiểm duyệt xảy ra vì bản thảo được mang một cái tên đồng quê hiền lành, Chuyện ở nông trại.
*
Vì thế tôi mừng cho một phần Võ Phiến đã chui lọt
một trong những cái lỗ tất yếu ngày càng to ra trong bức tường kiểm
duyệt ngày càng kém chất lượng ở Việt Nam. Một ngày không xa, Đêm giã từ Hà Nội có thể được xuất bản với tên tác giả là Nguyễn Đăng, một bút danh của Mai Thảo. Nếu phải đổi thành Hà Nội đêm tiễn biệt, Giọt nước mắt đêm chia tay Hà Thành, Thăng Long đêm biệt li…
để Mai Thảo được trở về cố hương, tôi sẽ lựa chọn sự ngụy trang ấy. Bản
thân tôi, không được thông báo trước, cũng có lần xuất hiện trên một
tạp chí ít người đọc ở trong nước, với cái tên chỉ dùng trong gia đình
và một nhóm nhỏ bạn bè.
Trong số những nhà văn miền Nam được mệnh danh là „những tên biệt
kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa-tư tưởng“ thì
Duyên Anh ngồi tù 5 năm rưỡi, mất tại Pháp; Hồ Hữu Tường ngồi tù 5 năm,
ra tù thì qua đời tại Việt Nam; Nguyễn Mạnh Côn chết trong tù; Vũ Khắc
Khoan di tản, mất tại Hoa Kỳ; Mai Thảo vượt biên, mất tại Hoa Kỳ; Doãn
Quốc Sỹ ngồi tù 14 năm, hiện sống ở Hoa Kỳ; Nhã Ca đi tù 2 năm, hiện
sống ở Hoa Kỳ; Võ Phiến di tản, hiện sống tại Hoa Kỳ; Nhất Hạnh đã ra
nước ngoài từ 1967; Dương Nghiễm Mậu ngồi tù 2 năm, hiện sống tại Việt
Nam… Năm 2007, 4 tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu vừa được in lại ở trong nước thì biến mất, rất nhanh, sau khi những pháo đài à la Vũ Hạnh
khạc đạn, loại đạn tồn kho quân khí tư tưởng từ vài chục năm trước, thô
sơ cổ lỗ nhưng vẫn đủ sức sát thương. Nhưng từ khi Võ Phiến alias
Tràng Thiên tái xuất, không thấy ông Vũ Hạnh, người đích thân phụ trách
phần viết về Võ Phiến trong tác phẩm chống „biệt kích văn hóa“ khét
tiếng nói trên, đem súng ra lau. Một dấu hiệu tích cực. Như thể dù phải
len lén đi đêm, văn học miền Nam và văn học hải ngoại cuối cùng cũng gửi
được một đại diện đáng kể của mình đến dự cuộc tọa đàm không chính thức
và đã rất trễ giờ về hòa giải dân tộc.
*
Song ngày vui ngắn chẳng tày gang. Bây giờ chúng ta
được biết cái giá phải trả cho tấm vé ngày về của Võ Phiến. Hóa ra việc
cải tên chỉ là một động tác rất phụ. Con trai ông, cũng một nhà văn,
bút danh Thu Tứ, người đã „chọn lựa và biên tập“ hai tác phẩm Quê hương tôi và Tạp văn nói trên, tuyên bố rõ trong bài „Trường hợp Võ Phiến“: „Chúng
tôi cố chọn những tác phẩm vừa giá trị nhất vừa hoặc không chứa hoặc
chứa rất ít nội dung chính trị. Nếu có nội dung chính trị, khi biên tập
chúng tôi loại bỏ hết. Mục đích của việc chọn và bỏ như thế là đưa những
thành tựu văn học đỉnh điểm của văn nghiệp Võ Phiến đến với người đọc
mà không gây hại cho nước.“ Trong phần còn lại của bài viết khá dài
này, ông Thu Tứ phê phán toàn bộ hành trình tư tưởng chống cộng của cha
mình để đi đến kết luận về giá trị của Võ Phiến: „Văn nghiệp Võ
Phiến vừa tích cực vừa tiêu cực. Tích cực, đáng lưu truyền, là phần văn
học. Tiêu cực, đáng bỏ đi, là phần chính trị“ cũng như điều kiện để Võ Phiến có thể trở về: „Sai
lầm chính trị đã đưa tác phẩm Võ Phiến ra khỏi lòng dân tộc. Đất nước
đã độc lập, thống nhất lâu rồi. Nay đến lúc, nhân danh bảo tồn những giá
trị văn hóa Việt Nam, đưa tác phẩm Võ Phiến trở về, sau khi lọc bỏ nội
dung chính trị.“
Tuyên bố của ông Thu Tứ xuất hiện trên trang Góc nhìn vào tháng 8/2014, song đến khi được Tuần báo Văn nghệ TP HCM đăng lại cuối tháng 9 và đầu tháng 10/2014 nó mới thực sự được chú ý. Như có thể đoán trước, nó cũng vừa được báo Nhân dân và báo Tuyên giáo đăng lại. Còn thiếu báo Thanh tra, báo Quân đội và báo Văn nghệ của Hội Nhà văn là thành trì tư tưởng chính thống điểm danh xong. Năm ngoái, cái liên minh già nua ấy đã khoe cơ bắp
trước tác giả trẻ Nhã Thuyên. Tương lai thuộc về ai, điều ấy không cần
bàn cãi. Nhã Thuyên có rất nhiều tài năng, rất nhiều lao động cả học
thuật và nghệ thuật. Cái liên minh ấy có những chiếc răng kiểm duyệt
cuối cùng. Ông Thu Tứ chỉ góp thêm một chiếc lá vàng vào mùa thu của các
vị trưởng lão.
Tôi không coi việc làm của con trai nhà văn Võ Phiến là hành động
„đấu tố cha“ hay „bất hiếu“, như phần lớn phía dư luận đang phẫn nộ, đặc
biệt ở hải ngoại. Máu mủ không phải là tiêu chuẩn để xác định đúng sai
thiện ác. Chẳng lẽ chúng ta phải ca ngợi từ Kim Chính Nhật đến Kim Chính
Ân, những người con trung thành nhất với cha ông? Lịch sử quá nhiều
điên đảo và phân cực của Việt Nam tất yếu chia cắt và chia rẽ, thậm chí
con người này đả đảo con người kia ngay trong một con người. Con cái
Phạm Quỳnh bất hiếu chăng, khi tận trung phục vụ cho chế độ đã giết cha
mình? Cù Huy Hà Vũ là một nghịch tử chăng, khi chống lại cái chế độ mà
cha mình là một trong những công thần khai quốc? Chúng ta lấy quyền gì
mà đem những quả tạ đạo đức ra đặt ùm ùm, lúc thì lên cán cân bên này,
lúc thì lên cán cân bên kia, chỉ để lẩy cho được cái kết quả trọng lượng
đang cần cho sổ sách trong những trường hợp như thế? „Trường hợp Thu
Tứ“ chỉ là điển hình cho những xung đột đã và đang giằng xé người Việt
trong mọi quan hệ và trên mọi bình diện. Nạn nhân là tất cả mọi thứ,
riêng gì đâu tình phụ tử.
Nếu ông Thu Tứ chỉ đoạn tuyệt với cha mình về quan điểm chính trị,
tôi không chia sẻ, nhưng đó là quyền tự do của ông, như của bất kì ai,
mà tôi thấy tranh luận là vô ích. Song điều khiến tôi sởn gai ốc là ông
biến cái quyền tự do tư tưởng ấy của bản thân thành quyền tự do thanh
trừng tư tưởng của người khác, và người đó là thân phụ ông, nhà văn Võ
Phiến, với tất cả lòng tin cậy ruột thịt đã cấp cho ông tấm giấy ủy
quyền. Giấy phép gọt Võ Phiến cho vừa khuôn Thu Tứ. Không thể trớ trêu
hơn. Đội quân đấu tranh tư tưởng của chính quyền Việt Nam có thể cả
cười: nó sẽ tế nhị rút lui, khi gia đình đã đủ là trận tuyến.
Quả thật có những nghệ sĩ lớn đã nhỏ hẳn đi khi làm chiến sĩ tư tưởng và ngược lại. Người ngưỡng mộ nhà thơ Pablo Neruda ước gì bài tụng ca Stalin của đồng chí đảng viên cộng sản Pablo Neruda chỉ là một cơn ác mộng lạc đường. Người yêu thơ Lê Đạt muốn tống khứ 626 dòng Trường ca Bác năm 1970, viết ngày giỗ đầu Hồ Chủ tịch (Mây
trắng đền Hùng/Râu Bác ung dung. Suối Lê Nin/ Núi Mác… Ôi/ Đến cả hình
hài/ Bác/ cũng chẳng mang đi… Bác để lại/ cho ta/bốn biển/ sâu xa/ tình
đồng chí. Bác để lại/ cho ta/ tất cả/ Bác Hồ), sau tất cả những sỉ
nhục dành cho Nhân văn-Giai phẩm. Biết đâu một ngày nào hậu duệ của Tố
Hữu sẽ đòi đốt sạch di sản của cha, một nhà thơ không phải là không có
năng khiếu, chỉ giữ lại bài thơ „Khi con tu hú“, với tên tác giả là Lê
Tư Lành, để giữ gìn nghệ thuật chân chính. Như ông Thu Tứ tin rằng phải
cắt phăng khối nọc độc, phần tác phẩm chứa tư tưởng chống chế độ cộng
sản của Võ Phiến, thì mới bảo toàn được giá trị sự nghiệp văn học của
cha mình.
Những quan niệm lang băm trung cổ như thế vẫn sống sót trong thời
hiện đại, nơi văn chương đã lặng lẽ rút lui khỏi ý thức xã hội. Ngày về
âm thầm của một tác giả lớn có dấy lên được một chút dư luận cũng chỉ vì
tiếng động của dao kéo kiểm duyệt. Trong „trường hợp Võ Phiến”, kiểm
duyệt tại gia đã đi trước kiểm duyệt quốc gia.
© 2014 pro&contra
_______________
[1] Võ Phiến, Tùy bút, quyển 2, Văn Nghệ, California 1987, tr. 317-318, 323-324
[2] Bất chấp sự tranh cãi về dịch thuật, việc Lolita chính thức xuất hiện trong tiếng Việt là một bước tiến đáng ghi nhận của đời sống văn học tại Việt Nam.
[3] Cả Nhã Nam lẫn NXB Hội Nhà văn đều không đưa thông tin về cuốn sách lên mạng. Lời đồn cuốn sách đã bị thu hồi cũng không được phía nào xác nhận hay bác bỏ.