Komori Yoshihisa – Khôi Nguyên dịch
“Lẽ
ra hai miền Nam Bắc Việt Nam đã được tiếp tục chung sống một cách lâu
dài theo tinh thần của hiệp định đình chiến Genève, nhưng vì phía Bắc
Việt đã chủ trương dùng quân sự thôn tính miền Nam nên đã bắt đầu cho
một cuộc chiến kéo dài cho đến ngày hôm nay”. (Cựu Ngoại trưởng VNCH
Trần Văn Đỗ)
Những cảm nhận sâu sắc về sự tàn ác của chủ nghĩa cộng sản
Người đã từng 3 lần giữ chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao của miền Nam là
ông Trần Văn Đỗ, một nhân vật mà thỉnh thoảng gợi lên nơi tôi sự tưởng
tượng về hình ảnh của loài chim hạc trắng vì dáng người ông cao ốm, mảnh
mai nhưng cử động nhanh nhẹn, cộng thêm mái tóc bạc mềm mại và khuôn
mặt trắng, thon dài. Tóm lại, tất cả những biểu hiện bên ngoài nơi ông
đã khiến cho tôi có cảm giác như vậy.
Cho đến thời điểm cận ngày Sài Gòn thất
thủ, tôi vẫn thường ghé thăm ông và được nghe ông nói chuyện về tình
hình chính trị cũng như về mặt ngoại giao của VNCH. Nhà ông ở một căn
apartment không lớn lắm nằm trên đại lộ Hồng Thập Tự gần ngay Dinh Độc
Lập. Những lúc gặp gỡ như vậy, ông thường nói chuyện rất dài và lúc nào
cũng tiếp đãi khách bằng những ly trà nóng thơm mùi hoa lài. Và nếu càng
nghe ông phân tích về những biến chuyển tình thế của từng giai đoạn, ta
sẽ càng cảm nhận sâu sắc thêm về ý nghĩa của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ông Đỗ sinh năm 1903 tại miền Bắc Việt
Nam. Ông đã tốt nghiệp đại học Y khoa tại Paris nên được coi là một
trong những nhân tài ưu tú của VN dưới thời Pháp thuộc. Sau đó, ông đã
phục vụ cho Pháp lẫn Việt Nam qua cương vị bác sĩ và cho đến năm 1951
khi vua Bảo Đại trở thành nguyên thủ quốc gia thì ông được tuyển nhiệm
làm chức vụ Giám Đốc Quân Y. Vào năm 1954, ông Đỗ là người đại diện cho
chính phủ miền Nam VN tại hội nghị Génève, đồng thời kiêm luôn chức Bộ
Trưởng Bộ Ngoại Giao cho đến năm sau đó, tức năm 1955 khi chính quyền
Tổng Thống Ngô Đình Diệm được thành lập.
Sau khi chính quyền ông Ngô Đình Diệm bị
lật đổ qua cuộc đảo chính năm 1963 thì đến năm 1965, ông Đỗ trở thành
Phó Thủ Tướng trong nội các của Thủ Tướng Phan Huy Quát. Từ đó cho đến
năm 1967, mặc dù chỉ trong một thời gian ngắn nhưng ông cũng đã giữ chức
Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao lần thứ hai. Với quá trình thay đổi chức vụ của
ông Đỗ liên tục như vậy, cũng phần nào cho thấy sự phức tạp của dòng
lịch sử cận đại Việt Nam.
Lúc tôi quen biết được ông thì ông cũng
đã khoảng 70 tuổi và mỗi khi tôi ngỏ ý được tiếp kiến thì ông đều vui
vẻ, sảng khoái nhận lời. Qua những lần gặp gỡ đó, ông Đỗ tuy vốn có
trình độ Anh ngữ cao, nhưng ông đã sử dụng lối giải thích thật dễ hiểu
để phân tích cho tôi nghe về tình hình và lịch sử VN cũng như những vấn
đề liên quan đến cục diện quốc tế. Có lần ông đề cập đến việc quân đội
Nhật xâm chiếm bán đảo Đông Dương trong thời Pháp thuộc như sau:
“Quân đội Nhật khi đến VN thì kể cả sĩ quan và binh linh đều có một tinh thần kỷ luật cao độ và uy thế của họ đã áp đảo hẳn quân đội Pháp thời bấy giờ. Tôi rất ngưỡng mộ tinh thần tôn trọng kỷ luật của họ.”
Đối với tôi, những điều đã được học hỏi
từ trước đến nay về hành động xâm chiếm Đông Nam Á của quân đội Nhật
được coi như là một chuyện không đúng nên nhận xét của ông Đỗ đã khiến
tôi thật bất ngờ. Có lẽ là một người đã từng trải và có nhiều kinh
nghiệm về lịch sử nên ông tỏ ra có lập trường dứt khoát nơi sự thiện cảm
đối với tinh thần kỷ luật quân đội Nhật.
Rồi kế đến, những nhận xét của ông về
hội nghị Genève lại càng súc tích và sâu sắc hơn. Ông nói rằng với cương
vị đại diện cho phái đoàn miền Nam Việt Nam lúc đó, ông đã không có một
sự nhượng bộ nào để làm mất danh dự cho quốc gia mình và hội nghị
Genève 1954 nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp tại Việt Nam trong một
tình thế hỗn loạn khi quân đội Pháp đang chiến đấu chống lực lượng Việt
Minh do HCM lãnh đạo khởi đầu cho giai đoạn 1 của cuộc chiến tranh Việt
Nam.
Trong hội nghị này đã có sự tham dự của
đại diện các nước như Ngoại Trưởng Bidault của Pháp, Ngoại Trưởng Eden
của Anh, Ngoại Trưởng Motolov của Liên Xô, Ngoại Trưởng Dulles của Hoa
Kỳ. Phía Trung Quốc và Bắc Việt cũng cử hai đại diện là Thủ Tướng Chu Ân
Lai và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng.
Tại hội nghị Genève đã ký kết một bản
hiệp định đình chiến giữa các phe tham chiến ở Việt Nam và đưa ra một
bản tuyên ngôn cuối cùng quy định về việc tạm thời chia cắt Việt Nam ra
làm hai miền và hai năm sau đó sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để
thống nhất quốc gia. Nhưng trên phương diện áp buộc của luật pháp quốc
tế thì chỉ có việc đình chiến là được thực hiện còn bản tuyên ngôn cuối
cùng nói trên thì không một đại diện nước nào chịu ký kết vào đó cả. Hơn
nữa, phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa cũng biểu quyết phản đối bản
tuyên ngôn này, và vì vậy ông Đỗ đã nhấn mạnh rằng: “Lẽ ra hai miền Nam
Bắc Việt Nam đã được tiếp tục chung sống một cách lâu dài theo tinh thần
của hiệp định đình chiến Génève, nhưng vì phía Bắc Việt đã chủ trương
dùng quân sự thôn tính miền Nam nên đã bắt đầu cho một cuộc chiến kéo
dài cho đến ngày hôm nay”.
Ông cũng cho rằng qua hiệp định Ba Lê
được ký kết năm 1973, trên thực tế Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa coi như
đã đầu hàng quân Bắc Việt:
“Hiệp định Genève đã thành công hơn hiệp định Ba Lê rất nhiều vì nó quy định được việc rút quân của phía Bắc Việt và người dân hai miền Nam Bắc đều được tự do chọn lựa nơi sinh sống của mình. Còn hiệp định Ba Lê chỉ đề cập đến việc quân đồng minh triệt thoái khỏi lãnh thổ Việt Nam và chấp nhận sự hiện diện của quân xâm lăng Bắc Việt tại miền Nam Việt Nam. Trong khi Hoa Kỳ với 500.000 binh sĩ mà không diệt được quân Bắc Việt, còn chúng tôi với lực lượng đơn độc làm sao có thể thắng được kẻ địch. Tóm lại, với nỗ lực ngoại giao của ông Kissinger vị cố vấn tối cao của một cường quốc hạng nhất thế giới là Hoa Kỳ trong ba năm qua là sự lãng phí vô ích và rốt cuộc chỉ nhận được kết quả là sự đầu hàng mà thôi.”
Ông
Đỗ đã vạch cho ra cho tôi biết về bản chất thật sự của cuộc chiến tranh
Việt Nam, đó là một cuộc chiến được kết hợp bởi sự chiến đấu giành lại
độc lập dân tộc với một cuộc cách mạng mang đặc tính chủ nghĩa cộng sản
cũng chủ trương giành lại độc lập, nhưng chủ nghĩa cộng sản có thật sự
tốt hay không hoặc chủ nghĩa cộng sản có đại diện cho chính nghĩa hay
không thì đó còn là một nghi vấn. Hơn nữa, để lật đổ chế độ thực dân tại
sao lại chỉ áp dụng phương pháp cách mạng đặc tính của chủ nghĩa cộng
sản.
Ông Đỗ còn giải thích rõ cho tôi nghe về lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sau khi bị đặt dưới ách thống trị của
thực dân Pháp kể từ những năm đầu thập niên 1880, tinh thần đấu tranh vì
độc lập của người Việt Nam ngày càng dâng cao mãnh liệt. Đương thời,
những tổ chức kháng chiến chống Pháp có hệ thống chặt chẽ là Việt Nam
Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quang Phục Hội, đảng Đại Việt v.v. Vì những tổ
chức này không tiêm nhiễm tư tưởng cộng sản nên được gọi là những lực
lượng chủ nghĩa dân tộc. Trong khi chủ thuyết Mác Lênin do HCM đề xướng
tại Việt Nam, lúc đó đang có những liên hệ mật thiết với khối cộng sản
quốc tế. Còn những lực lượng chủ nghĩa dân tộc đối với phe theo chủ
thuyết Mác Lênin thì có hai lập trường một là không màng đến, hai là coi
như kẻ địch. Và ông Trần Văn Đỗ là một trong những nhân vật tiếp nối hệ
phổ của những người đã từng có kinh nghiệm đấu tranh thuộc đảng Đại
Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng đương thời đang ở Sài Gòn như ông Trần
Văn Tuyên Dân Biểu Hạ Viện Quốc Hội, ông Đặng Văn Sung Thượng Nghị Sĩ
Quốc Hội, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy v.v.
Sau khi quân Nhật đầu hàng vào năm 1946,
các thế lực kháng chiến Việt Nam đã kết hợp lại để thành lập chính phủ
liên hiệp kháng chiến và một cán bộ của Việt Nam Quốc Dân Đảng là ông
Trần Văn Tuyên đã cho biết về kinh nghiệm liên hiệp với phe HCM như sau:
“Trong chính phủ liên hiệp, đảng cộng sản Việt Nam đã dùng tất cả những
thủ đoạn để loại trừ các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc.”
Âm mưu của đảng cộng sản Việt Nam là,
đầu tiên, để chống lại kẻ thù chung thực dân Pháp họ đã kêu gọi sự tập
hợp của những lực lượng kháng chiến theo chủ nghĩa dân tộc hầu lợi dụng
những thành phần này để bành trước thế lực, sau đó phe cộng sản lại giết
hại bất cứ những ai không đi theo chủ nghĩa cộng sản như họ, để độc
quyền thao túng vũ đài chính trị tại Việt Nam.
Ông Nguyễn Ngọc Huy và ông Đặng Văn Sung
cũng đã đưa ra nhiều bằng chứng xác thực về trường hợp những nhà cách
mạng dân tộc không theo chủ nghĩa cộng sản thời đó đã bị phe Việt Minh,
tức cộng sản dùng các thủ đoạn tinh vi để lường gạt hoặc sát hại. Tóm
lại, đối với những thế lực chính trị không đồng thuận cùng tử tưởng với
chủ nghĩa cộng sản thì họ đã cảm nhận đến xương cốt và hiểu biết một
cách sâu sắc về bản chất tàn ác của chủ nghĩa cộng sản.
Vào thời điểm cuối cùng tháng 4/1975
trong tình thế nguy ngập, ông Đỗ đã rời khỏi Sài Gòn đi tỵ nạn ở ngoại
quốc và cho đến những giây phút cuối ông vẫn lên tiếng chỉ trích, phê
phán hành động phản bội đồng minh của phía Hoa Kỳ.
Từ lúc Sài Gòn thất thủ cho đến 15 năm
sau đó, tôi vẫn tiếp tục liên lạc với ông Đỗ đã định cư tại Pháp và sống
chung với người con trai là bác sĩ có phòng mạch tại Paris. Cứ khoảng
hai năm một lần tôi đều đến viếng thăm ông. Nhà ông ở trong một chung cư
gần đại lộ Victor Hugo và vẫn như lúc còn ở Sài Gòn ông luôn tiếp đãi
tôi bằng những ly trà thơm dịu mùi hoa lài cùng với lối ăn mặc chỉnh tề.
Ông phân tích cho tôi nghe chuyện chiến tranh Việt Nam. Mặc dù đã là
quá khứ nhưng tôi cứ tưởng như những chuyện đang xảy ra trước mắt mình.
Vào mùa Thu năm 1990, thật là hiếm hoi
khi tôi nhận được thư ông nhắn rằng: “Xin mời anh đến để chúng ta cùng
nói chuyện.” Và tôi lập tức bay sang Pháp thăm ông. Thời điểm này, Việt
Nam đang sa lầy vào cuộc chiến Campuchia và tình hình quốc nội đang gặp
phải nhiều khó khăn cùng cực. Qua cuộc gặp gỡ này, ông Đỗ có vẻ như già
yếu hẳn đi, ông nói: “Việt Nam hiện nay tựa như một căn nhà đang chìm
đắm tai ương hoạn nạn.” Cuộc gặp ông lần đó đã để lại trong tôi một tình
cảm lạ kỳ, thật khó tả.
Một tháng sau, tôi nhận được tin ông Đỗ đã qua đời.
©Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR
(Kỳ 7: Vai trò lịch sử quái dị của hiệp định Ba Lê)
Nguồn: Sài Gòn Thất Thủ – Kỳ 5: Sự bắt đầu của màn chung kết. Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR, 31/03/2014.
HVR: Thân phụ ông Trần Văn Đỗ là cụ Trần Văn Thông, từng làm
Tổng đốc Nam Định 17 năm. Cậu ruột ông là cụ Bùi Quang Chiêu, người sáng
lập Đảng Lập Hiến Đông Dương. Ông là em ruột luật sư Trần Văn Chương,
nguyên Đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ thời đệ nhất Cộng Hòa, bà Trần Lệ Xuân vợ
Cố vấn Ngô Đình Nhu gọi ông là chú.