Trong khi giới nhà báo tranh luận về các
lựa chọn, ở lại Sài Gòn và trải qua lần quân đội Việt Cộng tiến quân
vào, hay để cho chở đi bằng máy bay và chấm dứt nhiệm vụ của họ ở Việt
Nam với câu chuyện di tản, thì các nhà ngoại giao của đại sứ quán Mỹ hy
vọng có thể tránh được cuộc di tản như là một kết cuộc nhục nhã, giống
như bỏ chạy. Thông tin từ hai nguồn đến với Graham Martin sếp của đại sứ
quán Mỹ, gợi lên ý nghĩ phía cộng sản sẵn sàng đàm phán: từ nhóm
Hungary của ICCS, Ủy ban Kiểm soát Quốc tế, và từ đại sứ quán Pháp.
Chính sếp CIA
ở Sài Gòn đã tự mình bắt liên lạc với các sĩ quan Hungary. Thomas
Polgar xuất thân từ một gia đình Hungary đã di cư sang Mỹ. Từ người đồng
hương sang người đồng hương, người ta tin cậy thông báo rằng Hà Nội
quan tâm tới một “giải pháp Lào”, để tránh một trận chiến trên đường phố
ở Sài Gòn. “Giải pháp Lào”, đó là một chính phủ trung lập, bao gồm các
nhân vật của “lực lượng thứ ba”, phe đối lập yếu ớt và bị coi thường cả
một thời gian dài ở Sài Gòn, và tất nhiên là với sự hỗ trợ về ngoại giao
của Liên bang Xô viết, Pháp và Liên hiệp Anh.
Nguồn thứ hai, dường như xác nhận các
thông tin của người sếp CIA, bắt nguồn từ đại sứ quán Pháp – mà trong đó
Jean-Marie Merillon, trong tinh thần của de Gaulle, đã tự mình tin rằng
“Grande Nation” thêm lần nữa sẽ nhận được một vai trò lịch sử trong
khoảnh khắc chiến bại của Mỹ. Merillon thông báo cho đại sứ quán Mỹ và
một nhóm nhỏ các nhà báo, mà tiêu chuẩn của họ là có khả năng sử dụng
tiếng Pháp một cách thanh lịch, rằng người cộng sản thông qua tiếp xúc
với người Pháp đã đưa ra “giải pháp Lào”: tước quyền “bè lũ Thiệu”,
thành lập một chính quyền trung lập, muốn hòa bình, dưới quyền “Big
Minh” và ngưng chiến trước cửa ngõ Sài Gòn, để tạo cơ hội cho một hội
nghị bốn bên bàn thảo một trật tự chính trị mới ở Nam Việt Nam.
Vòng vây bao quanh Sài Gòn càng siết chặt
lại bao nhiêu thì các cố gắng đàm phán ngừng bắn của các chính trị gia
và nhà ngoại giao càng tuyệt vọng bấy nhiêu. Vào ngày 26 tháng Tư, buổi
chiều lúc ba giờ, Thiệu rời Sài Gòn tới Đài Loan. Kể từ lúc từ chức, ông
cần năm ngày để xếp đồ đạc vào va li. Người dân Sài Gòn có một tưởng
tượng thật chính xác về những gì đã được đóng vào trong đó.
Đài phát thanh của Mặt trận Giải Phóng từ
chối lời đề nghị ngừng bắn của phó tổng thống Trần Văn Hương. Hương đại
diện cho một “chế độ Thiệu không có Thiệu”. Một chính phủ trung lập
phải được thành lập và dẫn đầu bởi “một nhân vật thật sự yêu chuộng hòa
bình”. Và quân nhân Mỹ, hơn 5000 người, phần lớn là sĩ quan trong bộ
tham mưu của DAO, Defense Attache’s Office hay cũng được gọi là “Lầu Năm
Góc phương Đông”, phải rời đất nước này, như là điều kiện tiên quyết.
Vào ngày 26 tháng Tư, một ngày thứ bảy,
vào cái ngày mà Thiệu rời bỏ đất nước, Quốc Hội đã họp trong một ngôi
nhà tối tăm hôi mốc ở khu cảng, để nhất trí ủy quyền cho phó tổng thống
Hương tự chọn một người kế nhiệm theo ý muốn của ông, không cần quan tâm
tới các quy định của hiến pháp Nam Việt Nam. Trần Văn Lắm, chủ tịch
thượng viện, theo hiến pháp lẽ ra là người kế đến. Nhưng là “người của
Thiệu” thì ông không có cơ hội được phía cộng sản chấp nhận là “một
người thật sự yêu chuộng hòa bình”.
Dương Văn Minh, được gọi là “Big Minh” vì
có thân hình to lớn, cần phải là người tổng thống mới. “Big Minh” đã
đóng một vai trò chủ chốt trong lần lật đổ Ngô Đình Diệm năm 1963 và qua
nhiều năm trời đã đứng vào phía đối lập với Thiệu. Không ai biết rõ là
phe đối lập này thật ra là bao gồm những ai. Nhưng hầu như tất cả mọi
người đều tin chắc rằng “Big Minh” có thể cứu thoát Sài Gòn trong thời
điểm nguy cấp.
Đại sứ Pháp và Mỹ tin là đã giật dây để
cho “Big Minh” bước ra hoạt động. Vào tối ngày chủ nhật, Graham Martin
thuyết phục thành công người tổng thống được bổ nhiệm, không cương quyết
yêu cầu giới quân đội Mỹ rút quân ngay lập tức. Khoảng cùng thời gian
đó, Jean-Marie Merillon vào gặp đại diện phe cộng sản, sau hiệp định
ngừng bắn 1973 đang ở trong khu vực an ninh của phi trường Tân Sơn Nhứt
của Sài Gòn, để tự mình thăm dò cơ hội của một “chính phủ hòa bình Big
Minh” qua sếp của phái đoàn, đại tá Võ Đông Giang, một con người khó
tính, giống như một cái máy nói không có xúc cảm.
Merillon được thông báo cần phải gấp rút;
người Mỹ phải rút lui ngay lập tức; phải tước quyền “bè lũ Thiệu” và
thay thế ở hàng đầu bởi những người ái quốc yêu hòa bình. Tuy vậy, viên
đại tá bất thân thiện đó không trả lời cho câu hỏi mang tính quyết định:
liệu một chính phủ do Big Minh đứng đầu có được chấp nhận như là đối
tác để đàm phán một giải pháp chính trị hay không.
Mặc dù không có được sự chắc chắn cuối
cùng này, Martin, Merillon và những người đi theo “Big Minh” vẫn bắt đầu
làm việc để cứu thoát Sài Gòn ra khỏi một cuộc chiến và cứu thoát
Phương Tây khỏi nỗi nhục nhã của một lần đầu hàng vô điều kiện. Sự lạc
quan của họ được nhiều người chia sẻ, chính là những nhà quan sát chính
trị đó, những người chịu ảnh hưởng trực tiếp của các nhân vật chính, tự
biến mình trở thành những người đồng lõa, và tin tưởng vào những cảm
nhận cá nhân ít hơn là vào các phân tích của những người giật dây.
Lần trao quyền lực từ Hương sang “Big
Minh” được dự định vào chiều ngày thứ hai, 28 tháng tư. Hàng ngày,
“Airlifter”, máy bay vận tải phản lực của Không quân Mỹ, đến Sài Gòn để
chở “những người bị nguy hiểm đặc biệt”. Khoảng 5000 người Việt rời đất
nước mỗi ngày. Cảnh chen lấn và xô đẩy của những người tìm chốn tỵ nạn
trước tòa đại sứ quán Mỹ hầu như không còn thể điều chỉnh được nữa.
Những người muốn chạy trốn cảm thấy một sự khẩn cấp gây tuyệt vọng. Xe
tăng cộng sản đã đứng trước cửa ngõ Sài Gòn, và mặc dù vậy, các cơ quan
lãnh sự Mỹ vẫn khăng khăng yêu cầu giữ đúng quy trình nhập cảnh phức
tạp. Tuy vào lúc này phần lớn các quốc gia Phương Tây đã di tản các đại
sứ quán của họ và quẳng các dự trữ rượu mạnh ra thị trường với giá vứt
đi, người Mỹ, được dẫn đầu bởi Graham Martin và Thomas Polgar, vẫn còn
tin có thể trì hoãn được chiến dịch di tản đường không quy mô lớn đã
được lập kế hoạch, vì một giải pháp chính trị bắt đầu hiện hình, cứu Sài
Gòn thoát khỏi sự hoảng loạn và khốn cùng của một cuộc chạy trốn.
Vào sáng chủ nhật, hai giờ trước khi mặt
trời mọc, quân đội cộng sản bắn vài hỏa tiển vào nội thành, rơi xuống
gần đại sứ quán Đức ở vùng ranh giới giữa Sài Gòn và Chợ Lớn, khu phố
người Hoa, và gây ra một vụ cháy lớn kinh hoàng. Từ hơn ba năm nay, Sài
Gòn không còn bị bắn phá trực tiếp nữa. Các hỏa tiển này, đi kèm theo đó
là một tiếng nổ thật lớn, đã để cho người dân nhận thức được rằng màn
cuối cùng của cuộc bao vây, đánh chiếm thủ đô, đã bắt đầu.
Chỉ các nhà ngoại giao có nhiều quyền lực
và ảnh hưởng trong đại sứ quán Mỹ và Pháp là vẫn không muốn đọc những
dấu hiệu ở trên tường đó. Các tín hiệu của phía bên kia cũng có thể được
hiểu, rằng Hà Nội chỉ muốn thúc giục tăng tốc quá trình chính trị.
Người cộng sản, Graham và Merillon cam đoan lẫn nhau như vậy, sẽ “mất
thể diện”, nếu như họ cố tiến quân đánh chiếm thành phố Sài Gòn ba triệu
dân trước con mắt của thế giới. Qua nhượng bộ chính trị, cả hai người
đều có ý như vậy, có thể giành được một thỏa hiệp hợp lý từ những người
cộng sản.
Trong những năm dài của chiến tranh,
những lý luận tương tự như vậy đã được các chính trị gia phe Tự do đưa
ra ở nhiều nơi. Cho tới thời điểm đó, Hà Nội vẫn không đưa ra một bằng
chứng nào cho việc này. Mang đặc tính của một “sự ngờ vực gần như là
bệnh hoạn” đối với phần còn lại của thế giới và đồng thời là của một “sự
tự mãn hoang dại cuồng nhiệt” (như Henry Kissinger sau này ghi lại
trong hồi ký của ông),Chiến lược đàm phán cố chấp của người Bắc Việt,
không đưa ra điều gì và yêu cầu mọi thứ, cho tới nay không đưa ra bằng
chứng nào cho việc rằng thỏa hiệp và nhượng bộ có thể ngăn cản Hà Nội
“giải phóng” miền Nam và thống nhất đất nước thành một Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Mặc dù vậy, Hiệp định Paris của tháng Giêng 1973 vẫn được
kiến lập trên những tiền đề này, trên giả định rằng Hà Nội sẽ chấp nhận
sự tiếp tục tồn tại của một nhà nước ở miền Nam. Việc Hà Nội từ bỏ xâm
chiếm miền Nam được mua bằng triển vọng hai tỉ dollar viện trợ kinh tế.
Cho tới thời điểm này, trong những ngày cuối cùng của tháng Tư, Hà Nội
chỉ chứng tỏ rằng những tiền đề của hiệp định chính trị là một ảo tưởng
thuần túy. Không một lời hứa nào và không một lời đe dọa nào có thể ngăn
cản Bộ Chính trị ở miền Bắc hoàn thành nhiệm vụ của Hồ Chí Minh và
“giải phóng” miền Nam.
Bây giờ, xe tăng của Cách Mạng đã đứng ở
rìa thành phố. Mùa khô đã qua, mùa mưa có thể bắt đầu vào bất cứ ngày
nào và sẽ gây khó khăn lớn cho các chiến dịch quân sự. Nằm trong đường
lối chiến lược cho tới nay của Hà Nội là thủ tiêu phần còn lại của quốc
gia Sài Gòn với một cú đánh trúng đích, tận hưởng chiến thắng quân sự,
thay vì cho phép có “tương quan Lào” và qua đó còn mang cả người Pháp
và người Nga lên sân khấu như là những người mang lại hòa bình nữa.
Việc đó minh chứng cho sức mạnh của ảo
tưởng, rằng ngay cả trong Sài Gòn bị bao vây, hiện giờ bị cô lập khỏi
phần còn lại của đất nước, trong tầm nhìn thấy xe tăng của đối phương,
mà một kế hoạch hòa bình trên phương diện chính trị vẫn có thể thành
hình được, cái tất nhiên là đòi hỏi chế độ ở miền Nam phải hy sinh nhiều
nhất, tức là phải tự phá hủy trật tự cho tới nay. “Bè lũ Thiệu”, “chế
độ bù nhìn”, phải bị hủy bỏ. Graham Martin, đại sứ Mỹ, đồng ý. Vào chiều
ngày thứ hai, 27 tháng Tư, phó tổng thống Hương sẽ từ chức và trao
quyền lại cho “Big Minh”.
Các chính trị gia tiến hành sự việc với
vận tốc của con ốc sên, trong khi tướng lãnh Bắc Việt, ở Sài Gòn ai cũng
nhận thấy, rõ ràng là thúc giục một quyết định. Cả ngày lẫn đêm đều
nghe được tiếng “womp-womp-womp” của đạn pháo. Bây giờ tiếng súng nổ lớn
nhất là từ hướng phi trường, nơi những chiếc máy bay di tản của cái cầu
hàng không nhỏ bé vẫn còn có thể hạ cánh mà không bị bắn phá. Người dân
Sài Gòn dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng. Cuối cùng thì người Mỹ có
chở hết tất cả những người Việt nào muốn đi hay không? Có lẽ cuộc chiến
sẽ chấm dứt với một thỏa hiệp chính trị.
Khi một phóng viên nổi tiếng từ giã bạn
bè vào buổi tối, vì “giải pháp Lào” cho phép ông bay về quê hương để
hoàn thành một phim tài liệu rồi sau đó quay trở lại Việt Nam, thì một
người bạn nói với ông ấy rằng hãy quên cái tên Sài Gòn trong lúc đó đi,
vì cho tới chừng đó thì người cộng sản đã chiếm được thành phố, và đổi
tên nó thành Thành phố Hồ Chí Minh rồi. Đó là “tuyên truyền của CIA”,
người này rít lên vì giận dữ. Ý thức lịch sử của người Việt sẽ để cho
một lần đổi tên như vậy trở nên vô lý. Cuộc thảo luận dường như tình cờ
đã trở nên dữ dội cho tới mức buổi tiệc từ giã kết thúc sớm hơn dự định.
Ai cho rằng người cộng sản quyết định
chấm dứt cuộc chiến đẫm máu với hơn một triệu nạn nhân bằng một chiến
thắng quân sự, và sau đó tạo dựng ở miền Nam những điều kiện giống như ở
Bắc Việt Nam, kể cả những giới hạn cho giới báo chí nước ngoài, thì
ngay trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn, người đó vẫn phải chịu đựng
sự nghi ngờ, là đã trở thành một nạn nhân của tuyên truyền Mỹ. Nhưng
cuộc tranh cãi của các ý kiến đã được nhanh chóng quyết định ngay sau
đó.
(Còn tiếp)
Winfried Scharlau
Phan Ba dịch từ báo Die Zeit, số 18, ra ngày 26/04/1985:
Đọc những bài khác ở trang Chiến tranh Việt Nam