Winfried Scharlau
Phan Ba dịch từ tuần báo DIE ZEIT, 26/04/1985, Số 18
Phan Ba dịch từ tuần báo DIE ZEIT, 26/04/1985, Số 18
Trước đây mười năm, người Mỹ tháo chạy khỏi Sài Gòn. Những
cố gắng cuối cùng để giải quyết sự lộn xộn về chính trị, trình ra cho Hà
Nội một chính phủ mới, “thật sự yêu chuộng hòa bình”, như là một đối
tác đàm phán, đã trở thành ảo tưởng. Trong cơn mưa bom đạn đổ xuống thủ
đô của nó, Việt Nam Cộng Hòa đã chấm dứt tồn tại. Với những phần còn lại
của xã hội thì không còn có thể kiến lập một nhà nước được nữa. Thông
tín viên Đông Á của [Đài truyền hình Quốc gia Đức] ARD nhớ lại.
Lời người dịch: Tiến sĩ Winfried Scharlau (1934 – 2004) là một nhà báo, tác giả và sử gia người Đức. Ông là phóng viên chiến trường trong thời gian của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Ông đã từng bị thương ở gần vĩ tuyến 17. Năm 1974, chiếc máy bay trực thăng chở ông đã đáp trúng mìn. Winfried Scharlau là một trong các nhà báo Phương Tây cuối cùng rời Việt Nam trong tháng Tư năm 1975.
Sài Gòn sợ chiến tranh hơn là sợ những người cộng sản. Mặt trận đã
tiến đến gần; vào ngày 21 tháng Tư, Xuân Lộc thất thủ, pháo đài cuối
cùng chận đường tiến quân vào thủ đô của các sư đoàn Bắc Việt từ phía
Đông.
Xuân Lộc, ngày 13 tháng 4 năm 1975
Tiếng “womp-womp-womp” của pháo binh, như Michael Herr sau này sẽ
chuyển tải lại tiếng động đặc biệt đó một cách thơ mộng-to tiếng trong
quyển Dispatches, đã có thể nghe được suốt ngày đêm. Nhưng
tiếng “dit-dit-dit” của súng cá nhân, ngoại trừ vài ngày trong lần tấn
công vào dịp Tết [Mậu Thân] 1968, đã dung tha cho người dân của Sài Gòn.
Cho tới bây giờ, người Sài Gòn đã sống qua được chiến tranh; còn hưởng
lợi từ nó nữa, và hưởng thụ những gia vị của một “xã hội Honda”, cái mà
bây giờ có nguy cơ bị cuộc chiến phá hủy.
Về quân sự thì cuộc chiến đã ngã ngũ. Sau khi chiến dịch tấn công
mùa xuân bắt đầu trên vùng núi, sau khi mất Ban Mê Thuột và Kontum, Tổng
thống Thiệu và bộ tham mưu của ông đã hạ lệnh rút lui, điều đã dẫn tới
bỏ chạy và hỗn loạn.
Chỉ còn những phần nhỏ của một quân đội được trang bị hiện đại gồm
hơn nửa triệu người là còn muốn đứng ra chiến đấu. Lần di tản hỗn loạn
ra khỏi vùng đồi núi chỉ thể hiện rõ cuộc khủng hoảng trong nội bộ của
quân đội Sài Gòn. Tinh thần chiến đấu của quân lính đã gãy gục trong
những tháng trước đó. Từ khi Mỹ cắt giảm viện trợ tài chính, từ khi ai
trong miền Nam cũng đã hiểu, rằng Hoa Kỳ không cung cấp vũ khí và tiền
tỉ dollar vô giới hạn nữa, và cũng không sẵn sàng hỗ trợ thêm một lần
nữa với không quân và quân đội trong trường hợp khẩn cấp, chậm nhất là
từ mùa thu 1974 thì con người, quân nhân và người dân thường, ai cũng
chỉ muốn cứu lấy chính mình, và trước hết là việc đó. Người Việt nhìn
thấy điều không thể tránh khỏi đang tiến đến gần. Khác với người Khmer
trong Phnom Penh cách đó còn chưa tới 300 kilômét, những người ngay cả
sau khi đại sứ quán Mỹ đã di tản cũng còn chiến đấu trên đường phố cho
tới kết cuộc cay đắng cuối cùng, đa số người Việt nhìn thấy sự an toàn
trong bỏ chạy. Ai còn muốn liều mạng sống của mình cho một việc đã thất
bại rồi? Sự hỗn loạn đi cùng với lần sụp đổ của Nam Việt Nam có nguyên
nhân sâu xa của nó trong nhận thức và lý trí của tập thể.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức
Vào ngày Xuân Lộc thất thủ, Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống của Việt
Nam Cộng Hòa, bảo đảm và đại diện cho trật tự cho tới giờ phút đó, tuyên
bố từ chức. Vào buổi tối, ông đã thổ lộ niềm cay đắng của mình về nước
Mỹ trong một bài diễn văn trên truyền hình. Thiệu lên án bộ trưởng bộ
ngoại giao Mỹ Henry Kissinger đã không nhận ra, rằng hiệp định Việt Nam
do ông ta thương lượng trong tháng Giêng 1973 đã dẫn miền Nam đi tới chỗ
chết. “Ai cũng nhận ra điều đó, nhưng Kissinger thì không. Các cường
quốc có lợi ích chung. Chúng tôi không có gì để hy sinh ngoài đất nước
nhỏ bé này.” “Họ bán đứng Việt Nam cho người cộng sản”, Thiệu nói người
Mỹ. “Thái độ vô nhân đạo của Hoa Kỳ là thái độ của một cường quốc trốn
tránh trách nhiệm của mình.” Tổng thống Richard Nixon, Thiệu nói tiếp
theo sau đó, đã “hứa trên giấy là sẽ giành cho đất nước mọi sự giúp đỡ
cần thiết về quân sự và kinh tế trong trường hợp miền Bắc tấn công.”
Giới hạn sự giúp đỡ của Mỹ là một hành động vô nhân đạo và đã dẫn tới
cuộc rút lui khủng khiếp đó và tới nhiều tổn thất. “Tôi không bao giờ
tin rằng”, Thiệu nói và khóc, “một người như Kissinger mà lại đưa dân
tộc chúng tôi tới một số phận đáng sợ như vậy.”
Sài Gòn cảm động lắng nghe người tổng thống đã từ chức đó. Những xúc
cảm mà ông biểu lộ trong lần xuất hiện cuối cùng này, điều mà nhiều
người không hề nghĩ rằng ông có, đã để cho một sự thiện cảm nhất định
nhú mầm. Nhưng đặc biệt là quyết định đi lưu vong của ông đã tạo hy vọng
cho một lần ngưng bắn mới. Hà Nội và Mặt trận Giải phóng đã yêu cầu lật
đổ Thiệu và “bè lũ” của ông như là điều kiện tiên quyết cho các đàm
phán. Ngay tới Quốc Hội Mỹ cũng tuyên bố rằng chừng nào mà Thiệu còn nắm
quyền thì chiến tranh sẽ kéo dài cho tới chừng đó. Bây giờ thì dường
như đã có một lối thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng. Phó tổng thống Trần
Văn Hương 71 tuổi tạm thời nhận lấy quyền lãnh đạo ở Sài Gòn. Người kế
nhiệm, Thiệu cũng đã thông báo trước để lý giải cho lần từ chức của
mình, sẽ đề nghị ngưng bắn và đàm phán.
Người dân đang chạy tỵ nạn ở Vũng Tàu, 21 tháng Tư 1975. Hình: Jacques Pavlovsky/Sygma/Corbis
Dường như Sài Gòn lại có hy vọng mới. Những người làm việc cho người
Mỹ hay cho một sứ quán của Phương Tây bao vây từ sáng cho tới tối những
phòng lãnh sự để nhận thị thực cho họ và gia đình. Chạy trốn là giải
pháp của một thiểu số, ngay cả khi những cảnh từ biệt đầy xúc động trước
cổng vào phi trường có quyết định hình ảnh chung cho tới đâu đi chăng
nữa. Người Mỹ vẫn còn chưa tỏ dấu hiệu, rằng họ đã sẵn sàng cho một cuộc
di tản đông người. Phần lớn người dân trong phần còn lại của nhà nước
Nam Việt Nam, cái bây giờ chỉ còn bao gồm những vùng đất hẹp quanh Sài
Gòn và các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, hy vọng vào một điều
kỳ diệu: hy vọng vào một tín hiệu đầy bí mật, cái có thể sẽ làm câm
lặng pháo binh cộng sản đã vào vị trí có thể bắn tới Sài Gòn từ lâu, và
dừng xe tăng lại, để trao tiếng nói cuối cùng cho các chính trị gia và
nhà ngoại giao.
Rằng Phnom Penh đã bị Khmer Đỏ chiếm trước đây vài ngày, rằng chiến
tranh đã tới gần cho tới mức có thể cảm nhận được, những việc đó đã
không thể bóp nghẹt niềm hy vọng đang nhú mầm. Nỗi lo sợ trước trận đánh
cuối cùng đã để cho ảo tưởng nở hoa. Kết cuộc của Sài Gòn là một chiến
thắng của ảo tưởng.
Đội ngũ các nhà báo, những người bây giờ có thể thực hiện các chuyến
đi ra chiến trường thật thuận tiện vào ban ngày, vì chiến tranh đã tiến
gần tới mức có thể nghe được, được người Mỹ mời tới dự một cuộc họp
trên quán rượu ở sân thượng của khách sạn cao tầng “Caravelle”. Thay cho
các thông tin về chính trị và diễn tiến cuộc chiến là những chỉ thị
“mật” cho trường hợp khẩn cấp, cho lần di tản bằng trực thăng. Có một
chỗ tập trung được quy định trước cho các nhà báo, ở gần văn phòng UPI,
gần cảng sông, có thể nhanh chóng tới đó được từ các khách sạn lớn
“Caravelle”, “Continental” và “Majestic”. Tín hiệu, các nhà báo được tin
tưởng thông báo, sẽ được phát qua radio vào ngày X. Trong trường hợp
khẩn cấp, đài phát thanh của quân đội Mỹ, phát tin tức “every hour on
the hour”, sẽ thêm vào câu: “The temperature is 105 degrees and rising”,
tiếp theo sau đó là bài “I am dreaming of a white Christmas” của Bing
Crosby. Người ta sẽ chờ quý bà, quý ông nhà báo tại địa điểm tập trung
với nhiều nhất là một món hành lý.
(Còn tiếp)
Winfried Scharlau
Phan Ba dịch từ báo Die Zeit, số 18, ra ngày 26/04/1985:
Đọc những bài khác ở trang Chiến tranh Việt Nam