Phạm Nhật Bình
Tin ông Lê Hiếu Đằng đang trải qua những giờ phút lâm chung đang
làm cho nhiều người rất buồn. Có nhiều lý do để buồn, nhưng có lẽ nỗi
buồn lớn nhất là vì cảm được những điều đau lòng nơi một người nhiều tâm
huyết như ông Đằng trong những năm tháng cuối đời.
Không đau lòng sao được khi vào những năm tháng cuối đời mình lại
phải thừa nhận một sự thật phũ phàng. Đó là biết bao hy sinh đóng góp
của mình và rất nhiều đồng đội lại chỉ góp phần tạo ra một tầng lớp
thống trị mới, còn khắt khe và tàn bạo hơn cả thời kỳ thực dân Pháp đô
hộ. Thêm vào đó, cái gọi là "Chế độ ngụy quyền" mà ông và nhiều đồng đội
đã từng cố gắng lật xuống cho bằng được để xây dựng CNXH, lại là chế độ
nhiều nhân bản, yêu nước, và có khả năng xây dựng mọi mặt xã hội hơn
thể chế Cộng sản chuyên chính hiện nay rất nhiều. Trong suốt gần 40 năm
qua, nhân dân tiếp tục sống trong đói nghèo suốt từ thời toàn trị sang
đến thời mở cửa; và sống dưới các giá trị con người mà nhân loại đã xác
định từ lâu. Chỉ có giai cấp cai trị là thay đổi từ sướng ít trong thời
toàn trị lên sướng nhiều và cực giàu trong thời mở cửa.
Không đau lòng sao được khi sau bao công sức đóng góp, đến cuối đời
ông chỉ thấy đất nước càng ngày càng bế tắc và thụt lùi. Thụt lùi so với
cả nước Miến Điện nghèo nàn, lạc hậu. Sau 40 năm bóp chết sức sống của
đất nước dưới gông xích độc tài và vì thế không còn sức chống trả hiểm
họa mất chủ quyền vào tay Bắc Kinh, giới độc tài quân phiệt Miến, dù
chưa hề vỗ ngực là "đỉnh cao trí tuệ loài người", cũng còn biết đặt vận
mạng đất nước họ lên trên hết. Họ gấp rút chọn con đường dân chủ để đưa
đất nước thoát hiểm. Đến cả nước Campuchia, một nước từng bị kéo về tận
thời cộng sản nguyên thủy dưới tay Pol Pot và thường bị giới lãnh đạo
đảng CSVN coi như chư hầu, cũng đã qua mặt Việt Nam trên con đường dân
chủ hóa để thoát khỏi vũng lầy độc tài.
Nỗi đau của ông Lê Hiếu Đằng cùng những đảng viên còn tâm huyết và tự
trọng càng lớn khi họ tự nhận ra chính mình cũng phải lãnh một phần
trách nhiệm trước tình trạng từng mảng chủ quyền đất nước đang biến mất
dần. Từ những cánh rừng đầu nguồn ở biên giới phía Bắc đến vùng Tây
Nguyên mang tính chiến lược quân sự đến các vùng biển đảo nhiều tài
nguyên đều đã bị giới lãnh đạo của ông Đằng xem là những vùng "đã mất
rồi" và nay chỉ phản đối lấy lệ trước mắt dân chúng mà thôi. Đó là chưa
kể hàng trăm những khu hoàn toàn biệt lập của "công nhân" Tàu trên khắp
nước Việt, đặc biệt tại những vùng hệ trọng chiến lược, cứ tiếp tục mọc
lên trước sự làm ngơ hoặc tiếp tay của giới cầm quyền. Những ước hẹn với
Tàu trong Hội nghị Thành Đô năm 1990 sẽ giao chủ quyền Việt Nam từng
bước và hoàn tất vào năm 2020 (đúng thời hạn 30 năm) không chỉ còn là
cơn ác mộng nữa nhưng đã trở thành một phần hiện thực rất lớn rồi.
Nhưng khó ai hiểu hay tin được những nỗi dằn vặt nêu trên nếu không
có những bước chân xuống đường biểu tình chống Trung Quốc xâm lược của
ông Lê Hiếu Đằng năm 2011 và các lên tiếng của ông từ đó đến nay, đặc
biệt là bức thư tính sổ đời mình trên giường bệnh chỉ vài tháng trước
đây. Từ sự cảm thông với tấm lòng chân thành của ông, người ta bắt đầu
thấy đây là một tấm gương can đảm đáng quí phục. Và càng đáng quí phục
hơn nữa khi có những đảng viên cao cấp hơn ông nhiều, biết rõ hơn ông
nhiều về các nguy cơ cho đất nước và vai trò tác hại của đảng CSVN,
nhưng vẫn không dám lên tiếng hay có một hành động nào xứng đáng, chỉ vì
bổng lộc cá nhân và quyền lợi chế độ ban phát cho con cháu họ.
Biết thời giờ của mình không còn nhiều, ông Lê Hiếu Đằng đã nhắn gởi
các đảng viên CSVN khác: “Lẽ ra bây giờ phải đoàn kết nhau lại để đấu
tranh, phải có dũng khí, nếu ai cũng sợ cho bản thân mình, sợ cho bản
thân gia đình mình thì đất nước sẽ ra thế nào, đất nước này ai lo?”.
Ông cũng bộc bạch với bạn hữu trong giới trí thức: “Bao giờ cũng vậy,
xã hội nào cũng vậy, thời kỳ nào cũng vậy, nhân sỹ trí thức phải đi
đầu, phải giương cao ngọn cờ đấu tranh, phải dũng cảm, đừng có sợ”.
Nhưng liệu những lời kêu gọi tha thiết của ông Lê Hiếu Đằng có rơi
vào khoảng không im lặng đáng sợ không? Đặc biệt, thế hệ đảng viên cùng
thời với ông Đằng có còn ai chia sẻ những dằn vặt lương tâm này không?
Ngày nay, tại các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô cũ, nhiều đảng
viên cộng sản thời đó đang bị chính thế hệ con cháu họ nhìn với ánh mắt
khinh bỉ. Những đảng viên ấy từng bảo vệ và bám lấy các chế độ Cộng sản
để hưởng lợi lộc cho đến những ngày tháng chót, bất kể sự ác độc và tàn
phá của các chế độ này đối với đất nước và dân tộc họ. Ngay cả những lời
của các cựu đảng viên này ngày nay chỉ trích các chế độ độc tài cũ cũng
chẳng ai muốn nghe vì đã quá trễ và vì thế càng trở nên nham nhở. Liệu
cảnh ấy có lại xảy ra tại Việt Nam trong tương lai không? Sẽ có bao
nhiêu đảng viên CSVN để quá trễ?
Nhìn vào xu thế của nhân loại và ngay tại vùng Đông Nam Á, rõ ràng
thời giờ không còn nhiều. Và có lẽ nay là thời điểm thích hợp nhất để
những đảng viên Cộng sản Việt Nam - những người còn muốn giữ lại thanh
danh và liêm sỉ đối với bản thân, đối với thế hệ con cháu, và đối với
dân tộc — chọn con đường công khai rời bỏ đảng vì vừa chính mình vừa vì
đất nước. Đừng để đến khi quá muộn.
Những con người đáng kính trọng như Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hộ, Trần
Độ, Trần Xuân Bách,…dài đến những Huỳnh Nhật Tấn, Huỳnh Nhật Hải, Phạm
Quế Dương, Vi Đức Hồi, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Ngọc Diễm
Phượng, ... và nay Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Đắc Diên đã chọn
con đường danh dự đó.