Nguyễn Gia Kiểng
“…Người Việt Nam nào không xúc động khi thăm những di tích của Phật Giáo ngay tại cái nôi của nó? Đạo Phật là tôn giáo lâu đời nhất của nước ta và là một thành tố quan trọng của văn hóa và lịch sử Việt Nam, đối với người Việt Nam tìm hiểu Phật Giáo cũng là tìm hiểu căn cước của chính mình…”
Người ta có thể không hài lòng nhưng không ai có thể tiếc đã tới
thăm Ấn Độ. Tất cả đều khác lạ, đôi khi kinh dị. Mọi người đều bị cuốn
hút, không ai có thể dửng dưng. Riêng tôi không chỉ hài lòng mà còn rất
hài lòng. Chuyến du lịch tham quan này tôi đã mong muốn từ lâu và nó đã
cho tôi ít nhất phần đầu câu trả lời của nhiều câu hỏi mà tôi tự đặt ra
cho mình.
Chắc chắn Ấn Độ còn rất nghèo và còn nhiều vấn đề nhức nhối. Nhưng
Ấn Độ đã tiến những bước rất dài và đang trên đà giải quyết những vấn đề
còn lại. Ngày nay không còn ai nói Ấn Độ là một nước tuyệt vọng, như
trong các thập niên 1950 và 1960 nữa. Cũng không ai chối cãi rằng Ấn Độ
đang thành công. Sự thành công của Ấn Độ không chỉ đáng mừng cho nhân
dân Ấn Độ mà còn có ý nghĩa quan trọng cho cả thế giới. Nó chứng minh
rằng thiết lập dân chủ không hề đòi hỏi một điều kiện tiên quyết nào;
dân chủ có thể thành công trong mọi trường hợp và còn có khả năng đưa
một dân tộc ra khỏi một tình trạng tưởng như tuyệt vọng.
Sự hài lòng của tôi sẽ hoàn toàn nếu không bị một dấu bémol khi thăm viếng vùng đất Phật.
Cũng như với hầu hết mọi người Việt Nam tới Ấn Độ lần đầu, thăm vùng
đất Phật đối với tôi gần như là một bắt buộc. Đạo Phật đã đến nước ta
từ gần hai ngàn năm nay và đã trở thành thân quen đối với chúng ta đến
độ mà mọi người Việt Nam đều phải ít nhiều có tâm tình Phật tử, ngay cả
những người không có tôn giáo hoặc đã chọn một tôn giáo khác. Thăm vùng
đất Phật cũng là tìm lại một phần tâm hồn của chính mình và của tổ tiên
mình. Có một cái gì rất xúc động. Càng xúc động vì ngày nay đạo Phật đã
biến mất tại Ấn Độ, ngay cả trên vùng đất mà người Phật tử coi là đất
thánh, nghĩa là vùng đất Phật mà tôi viếng thăm. Trong sự ồn ào tấp nập
của những đoàn người hành hương nghe như có một sự im lặng dày nhiều thế
kỷ.
Tuy vậy cái dấu giáng trong chuyến thăm Ấn Độ của tôi không phải vì
sự biến mất của Phật Giáo trên chính quê hương của nó mà vì không ngờ đã
phải thấy lại một vài nét không hay của đất nước và con người Việt Nam.
Nhưng trước hết hãy nói về vùng "đất Phật" mà tôi đã đi qua. Đó là
Lumbini nơi Phật sinh ra, Kapilavastu nơi Phật lớn lên và sống 29 năm
đầu đời, Bodh Gaya nơi Phật suy tưởng và tìm ra chân lý Phật Giáo,
Sarnath nơi Phật giảng bài giảng đầu tiên, Vaishali nơi Phật giảng bài
cuối cùng, và Kushinaga nơi Phật từ trần, tiếng nhà Phật gọi là nơi Phật
nhập niết bàn.
Lộ trình của tôi bắt đầu từ Sarnath sau khi đã viếng thăm Varanasi,
đất thánh của Ấn Giáo ngay cạnh đó, nơi mỗi buổi sáng hàng đoàn người
xuống tắm trong sông Hằng (Gange) để tẩy sạch tâm hồn bên cạnh những
giàn thiêu xác người. Tại Sarnath còn di tích khu đền lớn do vua Asoka
xây để tôn vinh Phật trong đó có một stupa đồ sộ. (Stupa là một kiểu mộ
rất lớn bằng gạch nung giống như một đống rơm xây trên một bệ hình tròn
bên trong đó có chôn một ít tro của Phật. Khi Phật chết ông được hỏa
thiêu, sau này vua Asoka đem chia tro của ông ra, chôn trong nhiều stupa
trên khắp nước Ấn Độ. Trong hơn mười bốn thế kỷ đạo Phật được tôn lên
làm quốc giáo của Ấn Độ trước khi tàn lụi một cách nhanh chóng lạ
thường). Bên cạnh stupa là những tượng và bia dựng lên sau này khi di
tích Sarnath được phục hồi nhờ Liên Hiệp Quốc tài trợ, tượng Phật đang
giảng bài giảng Bốn Chân Lý (Tứ Diệu Đế) cho năm môn đệ chăm chú nghe và
hai bia đá tạc bài Bốn Chân Lý bằng tiếng Pali và tiếng Anh. Bài giảng
này là nền tảng của tư tưởng Phật, nếu nói nó là tất cả triết lý phật
Giáo, như Đạt Lai Lat Ma, thì cũng không sai. Đây là nơi khai sinh ra
Phật Giáo.
Tác giả dưới gốc cây bồ đề nơi Phật đắc đạo.
Tháp trung tâm Bồ Đề Đạo Tràng, do vua Asoka xây thế kỷ 3 tr CN, trùng tu từ 1880.
Sau Sarnath chúng tôi tới thăm Bodh Gaya mà tiếng Việt gọi là Bồ Đề
Đạo Tràng. Gọi như vậy không đúng. Bodh Gaya là một thành phố, với
khoảng 10.000 cư dân và một số du khách lớn hơn quanh năm, chứ không
phải là một "đạo tràng". Bồ Đề Đạo Tràng (Mahabodhi Mahavihara) chỉ là
một khu đền trong thành phố Bodh Gaya này. Trung tâm đạo tràng là một
tháp cao và đẹp xây từ đời vua Asoka và được khôi phục lại từ cuối thế
kỷ 19. Bên cạnh tháp này là cây bồ đề mà dưới gốc Phật đã ngồi suy
tưởng. Cây bồ đề này chỉ là con cháu của cây nguyên thủy được ươm lại từ
một cành của một cây con của cây nguyên thủy. Tuy vậy nó cũng đã được
trên một trăm năm. Chung quanh đạo tràng này là khu chùa của nhiều quốc
gia theo đạo Phật. Mỗi nước đều có một ngôi chùa trong khu này, trừ chùa
Việt Nam ở ngoài thành phố, cách trung tâm khoảng hai cây số vì xây
sau, khánh thành năm 2003.
Tác giả tại stupa (mộ Phật) ở Vashali, bên trái là cột của vua Asoka với tượng sư tử trên đỉnh.
Di tích kế tiếp mà tôi thăm viếng là Vaishali (Vệ Sá Lị). Đây là nơi
Phật giảng lần cuối cùng. Cũng có một stupa và một cột của vua Asoka
còn nguyên vẹn. Người Ấn Độ và một số sử gia cho rằng nước cộng hòa đầu
tiên trên thế giới đã xuất hiện tại đây, vào thế kỷ thứ 6 trước Công
Nguyên, chứ không phải tại Hy Lạp. Nơi đây cũng là nơi mà Phật cho phép
bà Mahaprajapati (Kiều Đàm Di), cô ruột đồng thời cũng là mẹ nuôi của
ông, thành lập phái nữ tu đầu tiên của Phật Giáo. Việt Nam là một trong
số rất ít nước có một ngôi chùa ở khu này, chùa Kiều Đàm Di. Chùa này do
sư cô Khiết Minh thành lập năm 2008 trong một khuôn viên rất rộng và
vừa xây thêm một tháp rất lớn bên trong có tạc những kinh Phật chính.
Tháp này xây nhờ tiền cúng dường ban đầu trên 100.000 USD của phật tử
Việt Nam hải ngoại. Hôm chúng tôi đến đó các công nhân Ấn và Việt đang
hối hả làm việc để kịp ngày khánh thành bảo tháp. Tôi hỏi một ni cô trẻ
rằng chỉ còn ba ngày nữa là phải khánh thành liệu có làm xong không, ni
cô cười đáp: "Không xong cũng phải xong". Nhưng đàng nào thì cũng chưa
xong vì các ni cô còn dự định dựng thêm hai ngàn tượng Phật và khắc thêm
30 bức phù điêu. Chi phí cho dự án này là khoảng 200.000 USD. Tôi hỏi
tại sao cần dựng nhiều tượng Phật như vậy thì chỉ được trả lời bằng một
nụ cười. Theo thống kê của chính quyền Ấn Độ thì trung bình hàng tháng
chỉ có khoảng 150 người Việt tới Ấn mà thôi như vậy trung bình số người
Việt thăm chùa và bảo tháp hàng ngày không quá năm người, quá ít so với
số tượng Phật dự trù trong khi khách thăm chùa Việt Nam chủ yếu là người
Việt Nam bởi vì tinh thần chung như tôi có thể thấy khi thăm các chùa
là "chùa nhà ai nấy viếng".
Sinh thời Phật đã tới Vaishali khá thường xuyên trên đường về thăm
quê hương ở Kapilavastu. Cũng như thường lệ lần cuối cùng ông ghé
Kushinaga sau khi rời Vaishali và mất ở đó, thọ 80 tuổi. Tại Kushinaga
có đền Niết Bàn được xây dựng lại giữa một khu di tích lớn trong đó có
tượng Phật nằm sau khi chết và trước khi hỏa táng. Nơi đây cũng có một
chùa Việt Nam, do một nhà sư Trung Quốc xây và nhường lại cho một sư cô
Việt Nam trước khi qua đời. Bây giờ chùa mang tên "chùa Linh Sơn Việt
Hoa".
Khu "đất Phật" cuối cùng mà chúng tôi tới thăm là Kapilavastu, trước
dây là kinh thành của dòng sứ quân Thích Ca (Sakya), dòng họ của Phật.
Cụm từ "Thích Ca Mầu Ni" có nghĩa là "sư Sakya". Sakya là một dòng họ
chiến binh, cha của Phật là một sứ quân, Phật đã có thể kế tiếp ngôi sứ
quân nếu không chọn con đường tu hành. Kapilavastu ngoài sự kiện là nơi
Phật sinh ra và sống 29 năm đầu đời không liên quan gì đến đạo Phật.
Ngay cả khi Phật còn sống Kapilavastu cũng không phải là một trung tâm
Phật Giáo. Trái lại trong khu kinh thành này nay vẫn còn sót lại một đền
thờ thần Shiva với bên cạnh là một tượng dương vật (lingam) được dựng
lên ngay trong thời cực thịnh của Phật Giáo. Anh hướng dẫn viên cười nói
"không ai là tiên tri trên quê hương mình". Kinh thành này đã bị phá
hủy vào thời của Phật, những di tích còn lại theo một số chuyên gia là
của kinh thành được xây dựng lại vài thế kỷ sau đó.
Dòng họ Sakya sau này ra sao? Không ai biết chắc chắn. Một phần lớn
đã bị tàn sát ngay trong sinh thời của Phật, phần còn lại tản mát. Tại
Kathmandu, thủ đô Nepal, tôi may mắn gặp được một trí thức quan tâm đến
sử và từng là thứ trưởng ngoại giao Nepal. Anh cho biết một phần của
dòng họ Sakya đã về vùng Patan, gần Kathmandu, sinh sống và ngày nay vẫn
còn con cháu ở đó, một số làm và bán tượng Phật. Anh ta có dẫn chúng
tôi tới thăm khu này.
Người Việt Nam nào không xúc động khi thăm những di tích của Phật
Giáo ngay tại cái nôi của nó? Có một cảm giác rất bâng khuâng, đi kèm
với ý thức không vui về sự hời hợt cố hữu về tư tưởng của người Việt
Nam. Đạo Phật là tôn giáo lâu đời nhất của nước ta và là một thành tố
quan trọng của văn hóa và lịch sử Việt Nam, đối với người Việt Nam tìm
hiểu Phật Giáo cũng là tìm hiểu căn cước của chính mình. Tuy vậy cho tới
nay hình như chưa có những cố gắng nghiêm chỉnh để tìm hiểu nó. Sự hiểu
biết của chúng ta về Phật Giáo, theo những gì tôi đã được nghe và đọc,
mới chỉ là sự hiểu biết phiến diện về những gì mà người Trung Quốc
truyền bá về Phật Giáo. Những cuộc tranh luận xem đạo Phật đến nước ta
trước hay đến Trung Quốc trước, đến bằng đường bộ hay bằng đường biển
đều không quan trọng, sự thực là Phật Giáo Việt Nam lệ thuộc nặng nề
Phật Giáo Trung Quốc. Bắt đầu ngay bằng chữ "Phật". Các kinh Phật cũng
đều đến từ Trung Quốc và mang tên chữ Hán: Tứ Diệu Đế, Pháp Hoa, Bát
Nhã, Thủ Lăng Nghiêm v.v. tất cả được dịch sang tiếng Việt một cách luộm
thuộm và tối nghĩa. Ngay cả những danh từ chính mà người Trung Quốc
không dịch mà chỉ phát âm theo cách của họ chúng ta cũng nhận luôn để
rồi phát âm lại theo tiếng Việt, nghĩa là đọc sai đi từ cái vốn đã sai.
Thí dụ như Thích Ca (Sakya), Lộc Uyển (Sarnath), Lâm Tỳ Ni (Lumbini), Vệ
Sá Lị (Vaishali), Ni Liên Thiền (Niranjana), Tu Xà Đa (Sujata) và cả
tên Phật: Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Siddharta Gautama).
Mặt khác Trung Quốc đã bỏ rơi đạo Phật từ sau nhà Đường và không còn
những cố gắng để hiểu sâu Phật Giáo nữa. Những khảo cứu nghiêm chỉnh
nhất về Phật Giáo là của các học giả Phương Tây và Nhật. Về Phật học
chúng ta lệ thuộc cái đã lỗi thời từ lâu.
Một thí dụ là kinh Pháp Cú (Dhammapadda) mà các nhà sư tụng mỗi
ngày. Câu số 70 trong Phẩm Ngu do hòa thượng Thích Thiện Siêu dịch từ
bản chữ Hán như sau: "Từ ngày này qua tháng khác với món ăn bằng đầu
ngọn cỏ cô-sa, người ngu có thể lấy để nuôi sống, nhưng việc ấy không có
giá trị bằng một phần mười sáu của người tư duy Chánh pháp". Ai hiểu?
Phẩm (chương) này nói về những người ngu dốt ăn năn về tội lỗi của mình
và tự đày đọa mình để chuộc tội. Theo Phật họ có đày đọa thân xác bằng
cách ăn cỏ như súc vật đi nữa để chuộc tội cũng chẳng đi đến đâu, không
bằng học để hiểu con đường giải thoát. Nhưng tại sao lại một phần mười
sáu mà không là một phần mười lăm hay một phần mười bẩy? Bản dịch của
hòa thượng Thích Minh Châu (nguyên viện trưởng viện đại học Vạn Hạnh)
cũng vẫn một phần mười sáu, cũng không kèm theo một lời giải thích nào
và còn khó hiểu hơn. Có lẽ thái độ chung của hai vị sư này là "Phật đã
nói thế thì cứ biết thế". Nhưng vấn đề là Phật không nói như thế. Con số
16 là con số huyền bí của Ấn Độ, ngoài sự kiện là một con số nó còn có
nghĩa bóng là "toàn vẹn". Khi Phật nói cắn cỏ ăn năn không bằng "một
phần mười sáu" của cố gắng học hỏi để khai sáng tâm hồn ông chỉ muốn nói
là "chẳng là gì so với" mà thôi. Một câu như vậy mà trong hàng ngàn năm
người ta tụng hàng ngày mà không ai thắc mắc chứng tỏ rằng người Việt
chúng ta tuy ham học nhưng lại không có nhu cầu hiểu. Câu 70 này không
phải là ngoại lệ, phần còn lại của toàn bộ kinh Pháp Cú được dịch ra
tiếng Việt cũng đều như thế cả và nói chung các kinh Phật khác cũng thế.
Nhân nói về ăn năn thiết tưởng cũng nên nói về một hiểu lầm khác của
người Việt và người Hoa về Phật. Đúng ra là một hiểu lầm của người
Trung Hoa mà người Việt tiếp thu không bàn cãi. Nếu ta hỏi một nhà sư
tại sao Phật bỏ hoàng cung đi tu thì có tất cả mọi triển vọng vị tu sĩ
đó sẽ trả lời rằng đó là vì nhờ tâm hồn và trí tuệ siêu việt có một
không hai Phật đã nhận ra sự vô nghĩa của cuộc sống. Tuy nhiên sự thực
không phải như vậy. Phật đã bỏ nhà ra đi trong một phong trào xã hội rất
lớn tại Ấn Độ vào lúc đó. Thời đại của Phật là lúc tư tưởng Ấn Giáo,
đặc biệt là các thuyết luân hồi và nhân quả, đã xâm nhập chủng tộc thống
trị Aryen. Nó tạo ra niềm tin rằng những người làm chuyện ác, như chém
giết, sẽ bị đầu thai vào một kiếp sau cùng khổ, thậm chí kiếp súc vật.
Niềm tin này dần dân chín muồi và đạt tới cao điểm vào thời của Phật; nó
tạo ra cả một làn sóng kinh hoàng trong giai cấp chiến binh của Phật.
Không phải chỉ có Phật mà hàng ngàn hàng vạn chiến binh như Phật đã bỏ
nhà ra đi tìm con đường khổ hạnh để chuộc tội. Có người bò ra làm chó và
chỉ ăn thực phẩm đã ném xuống đất, có người ăn cỏ, có người ăn cả phân
để đền tội. Phật chỉ là một trong vô số người bỏ nhà ra đi này. Trong số
này có cả một người đương thời với Phật mà rất có thể Phật đã gặp vì
ông này sinh ra và lớn lên ở Vaishali nơi Phật lui tới thường xuyên,
cũng quyền quí và rất nổi tiếng như Phật. Đó là Mahavira, giáo chủ đạo
Jain (có thể dịch sang tiếng Việt là Thắng Giáo), người đưa ra thuyết
ahimsa (bất bạo động) mà Phật lấy lại. Cái độc đáo của Phật không phải ở
chỗ ông đã bỏ nhà đi tu mà là vì ông đã thấy hành hạ thân thể chẳng có
ích lợi gì, điều quan trọng là sự hiểu biết. Đạo Phật ra đời vì thế.
Có lần tôi hỏi anh Lưu Hồng Khanh, giáo sư thần học trong nhiều viện
thần học tại Đức, rằng người Việt Nam có công trình nghiên cứu khách
quan và nghiêm túc nào về Phật Giáo và tư tưởng Ấn Độ không. Anh Khanh
là một trí thức mà tôi coi như một người đàn anh và rất kính phục thẩm
quyền về mặt tôn giáo. Anh đã dành nhiều cố gắng nghiên cứu tư tưởng Ấn
Độ, anh từng là linh mục Công Giáo và đang vừa là mục sư Tin Lành vừa
làm công việc hướng dẫn tâm linh của một thiền sư. Lưu Hồng Khanh ngần
ngừ rồi trả lời: "Ít lắm, mình cũng tìm kiếm nhưng có duyên hơn với các
tác giả trong các ngôn ngữ khác". Chúng ta không tìm hiểu một phần quan
trọng của chính mình cho nên chúng ta không hiểu căn cước của chính mình
và vì thế không biết mình có thể và phải làm gì.
Những điều này tôi đã biết trước khi tới Ấn Độ, thăm viếng Ấn Độ và
vùng đất Phật chỉ là dịp xác nhận lại bằng cảm xúc. Điều thực sự đáng
buồn mà tôi không biết trước là tình trạng hai ngôi chùa Việt Nam tại
Bodh Gaya và Lumbini. Cả hai ngôi chùa này đều do một người thành lập và
đều mang tên Việt Nam Phật Quốc Tự. Cả hai ngôi chùa này hiện nay đều
hoang vắng. Tại Bodh Gaya chúng tôi đã rất ngạc nhiên khi tới chùa Việt
Nam vì không có cảnh tấp nập ra vào như chùa của các quốc gia khác. Càng
ngạc nhiên và thất vọng hơn nữa khi biết chùa đóng cửa vì không có sư.
Phải gọi cửa rất lâu mới có một người gác nhà Ấn Độ ra mở cửa, anh ta
cho biết là không có vị sư Việt Nam nào ở đây cả, họ đi vắng không biết
bao giờ mới về. Ngôi chùa này có kiến trúc hơi lạ, và theo tôi không
đẹp, lối vào dẫn thẳng tới một cầu thang khá cao chiếm gần hết mặt tiền,
phải đi lên để vào chính điện ở tần trên. Mặc dù vẫn có hai người Ấn Độ
trông coi khu vườn đã bắt đầu có vẻ hoang vu. Tôi nhớ lại là cách đây
gần mười năm một người bạn tại Đức đã gửi cho tôi một thư kêu gọi của
một nhà sư. Ông này mô tả sự bi đát của khu Phật tích. Ông nói rằng khi
ông tới đây ngay dưới gốc cây bồ đề nơi đức Phật đắc đạo chỉ có những
đống rác, ông quá đau lòng nên đã quyên góp được một số tiền từ các Phật
tử có lòng hảo tâm và dựng lên một ngôi chùa, bây giờ chùa vẫn chưa
xong hẳn và cần được giúp đỡ v.v. Tới đây người ta có thể thấy là không
phải như vậy, khu Bồ Đề Đạo Tràng đã được trùng tu từ hơn một thế kỷ
rồi, nhiều chùa nguy nga của nhiều quốc gia cũng đã được xây lên sau đó;
ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc Tự này vì xây sau nên không còn đất ở khu
chùa, phải xây ngoài thành phố. Tôi phân vân không hiểu tại sao nhà sư
này có thể nói sai sự thật đến như thế, nhưng trước mắt tôi là một cảnh
đáng buồn hơn: một ngôi chùa khá lớn đang bị bỏ rơi.
Chùa Việt Nam Phật Quốc Tự tại Bodh Gaya chụp từ cổng. Bên cạnh chùa còn một tháp cao.
Tại Lumbini là một ngôi chùa khác cũng mang tên Việt Nam Phật Quốc
Tự và cũng do nhà sư này dựng lên. Cũng cùng một kiểu kiến trúc. Cửa
chùa cũng đóng và không có ai thăm viếng. Chúng tôi gọi cửa. Một lúc sau
một thanh niên Việt Nam ra mở cửa và mời chúng tôi vào thăm chùa. Anh
này là một Phật tử ở Úc sang, vì thấy chùa không người trông nom nên ở
lại giữ chùa. Tôi hỏi chùa còn có sư nào không thì anh ấy trả lời là
không và cho biết thêm vị sư lập ra chùa này là Thích Huyền Diệu cũng là
người đã lập ra chùa Việt Nam Phật Quốc Tự ở Bodh Gaya và bây giờ ở
Bodh Gaya chứ không còn ở đây nữa. Như vậy là anh không biết là ông
Huyền Diệu hiện không ở Bodh Gaya. Anh nói với một giọng buồn phiền:
chùa Việt Nam này là một trong những chùa khởi sự xây sớm nhất ở đây
nhưng lại vẫn chưa xong. Chúng tôi chợt thấy một con sếu lớn mầu xám.
Anh thanh niên cho biết đây là một loại hạc chỉ có vài chục con trong
vùng Lumbini, có vài con tới đây và ở lại đây.
Thế là chúng tôi đã thăm bốn ngôi chùa Việt Nam và tương lai của cả
bốn ngôi chùa đều đáng lo ngai. Hai chùa Việt Nam Phật Quốc Tự tại Bodh
Gaya và Lumbini thì gần như đã bỏ trống. Chùa Linh Sơn Việt Hoa tại
Kushinaga thì quá ít người thăm và cúng dường, rồi tương lai sẽ ra sao?
Chùa Kiều Đàm Di tại Vaishali vừa khánh thành bảo tháp vẫn còn cần nhiều
tiền để hoàn thành như dự định và sau đó sẽ còn tiếp tục cần được tài
trợ để bảo trì chùa và hoạt động xã hội. Các ni sư dự trù sẽ phát quà
nhiều lần mỗi năm cho người nghèo tại đây và mở một trường học miễn phí.
Những hoạt động này rất đáng khuyến khích, chúng tạo một hình ảnh đẹp
của Việt Nam trên đất nước Ấn Độ mà chúng ta cần tăng cường sự hợp tác
và cũng chứng tỏ sự ràng buộc với một nguồn văn hóa nền tảng của chính
chúng ta. Nhưng rồi liệu chùa Kiều Đàm Di có sẽ được sự yểm trợ mong
muốn không? Tôi thực sự lo âu sau khi đã thấy tình trạng của hai ngôi
chùa Việt Nam Phật Quốc Tự và, ở một mức độ ít quan ngại hơn, chùa Linh
Sơn.
Tôi có cảm tưởng buồn buồn như thấy lại tâm lý Việt Nam trên đất
Phật. Chúng ta hăm hở khởi đầu nhưng lại thiếu sự bền bỉ để tiếp tục.
Chúng ta có thể trợ giúp hàng trăm nghìn USD để xây chùa nhưng sau đó
lại không đài thọ những khoản tiền nhỏ hơn nhiều, chỉ vào khoảng một
nghìn USD mỗi tháng, để nuôi chùa. Chúng ta cũng thường dự liệu tương
lai một cách chủ quan và lệch lạc. Tất cả các chùa ở đây đều chủ yếu
sống bằng tiền cúng dường của người hành hương từ nước mình. Người Thái
giúp chùa Thái, người Hoa giúp chùa Hoa v.v. Các chùa Việt Nam tại đây
chắc chắn đã được lập ra với niềm tin là đa số người Việt Nam theo đạo
Phật; tôi từng được đọc những bài báo nói 80% người Việt Nam là Phật tử.
Không gì sai bằng. Người Việt Nam thân quen với Phật Giáo nhưng điều đó
không có nghĩa là họ theo đạo Phật. Trong một nghiên cứu của trường đại
học Irvine, California, năm 2001, gần 90% người Việt Nam được thăm dò
nói họ không có tôn giáo nào cả. Từ đó đến nay niềm tin tôn giáo của
người Việt có nhiều triển vọng sút giảm đi hơn là tăng lên. Theo thống
kê thì số người Việt Nam đến Ấn Độ trung bình mỗi tháng chỉ có khoảng
150 người, người Việt hải ngoại cũng không thường đi Ấn Độ như tôi có
thể quan sát trong giới bạn bè. Nguồn yểm trợ của các chùa Việt Nam tại
Ấn quả thực là rất mỏng manh. Hy vọng rằng chùa Linh Sơn và chùa Kiều
Đàm Di sẽ gặp nhiều may mắn, nhưng hiện trạng và tương lai các chùa Việt
Nam quả thực đã khiến chuyến thăm Ấn Độ của tôi không được vui trọn
vẹn.
Tháp lớn của chùa Kiều Đàm Di, ba ngày trước lễ khánh thành.
Càng không vui sau khi về Paris và được biết thêm về người đã lập
hai chùa Việt Nam Phật Quốc Tự. Một hôm nhân khi nói chuyện về Ấn Độ một
chị bạn của vợ tôi, một Phật Tử thuần thành, tự nhiên nói đến thượng
tọa Thích Huyền Diệu, người sáng lập ra hai ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc
Tự tại Bodh Gaya và Lumbini có tên tục là Lâm Trung Quốc và tốt nghiệp
cùng trường với tôi. Không thể như vậy được vì trường tôi không có ai
tốt nghiệp rồi trở thành sư cả. Tôi lại chợt nhớ tới lá thư kêu gọi rất
sai sự thực mà anh bạn bên Đức gửi sang trước đây nên tò mò vào Google
tìm. Và bị choáng váng. Có quá nhiều thông tin về ông Lâm Trung Quốc –
Thích Huyền Diệu này. Các báo điện tử của nhà nước Việt Nam đề cao ông
ta như một thiên tài, tốt nghiệp hai bằng tiến sĩ thần học và văn chương
tại đại học Sorbonne, Paris, và giáo sư về bang giao quốc tế tại "nhiều
đại học danh tiếng trên thế giới", chủ tịch Liên Đoàn Phật Giáo Thế
giới Nepal, chủ tịch Hội Đồng Phật Giáo Thế Giới Lâm Tỳ Ni, bạn thân của
vua Nepal, đã góp phần quyết định phục hưng khu di tích Lumbini và đề
nghị UNESCO công nhận Lumbini là di sản văn hóa thế giới, một vị thánh
tăng mà chim hạc trên trời đã về chầu. Chính Thích Huyền Diệu cũng tự
viết ra một cuốn sách tựa đề "Khi hồng hạc bay về" để kể lại câu chuyện
này. Có vô số hình nhà sư này chụp với những nhân vật lớn trong đảng và
nhà nước Việt Nam, kể cả với tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nhân vật này
chỉ có thể là bịp bợm vì một lý do giản dị là nếu có một người như vậy
thì chắc chắn tôi đã phải biết. Hơn nữa những cái tên như "Liên Đoàn
Phật Giáo Thế giới Nepal" và "Hội Đồng Phật Giáo Thế Giới Lâm Tỳ Ni" quá
vớ vẩn. Đã "thế giới" thì không thể "Nepal" hoặc "Lâm Tỳ Ni". Tuy vậy
tôi cũng coi thử một video xem nhân vật này ra sao. Đó là một buổi
"thuyết pháp" do giáo hội Phật Giáo nhà nước tổ chức để "hoà thượng
Thích Huyền Diệu" thuyết giảng cho hàng nghìn người mặc áo cư sĩ mầu xám
ngồi thành hàng thẳng tắp cung kính lắng nghe. Coi video này thì không
còn ngờ vực được nữa. Anh chàng này đúng là một tay khoác lác không có
bài bản. Anh ta mở đầu buổi thuyết pháp bằng cách yêu cầu cử tọa giữ một
phút im lặng để "mặc niệm các sư tiền bối, thánh tử đạo và hồn thiêng
đất nước" rồi cười toe toét và nói lung tung chẳng ra đầu đuôi gì cả,
cũng chẳng có gì liên quan tới Phật và Phật Giáo. Anh ta khoe là quen
thân với vua Nepal đến độ gọi vua bằng "mày" ("mày không tu là mày
tiêu!") và chính anh ta đã can thiệp để chính quyền Ấn Độ xây phi trường
Bodh Gaya cho đồng bào Việt Nam hành hương khỏi phải đi qua Delhi. Anh
ta cũng nhắc lại thành tích khôi phục Lumbini và thuyết phục Liên Hiệp
Quốc nhìn nhận qui chế di sản văn hóa của nhân loại. Dĩ nhiên tất cả đều
chỉ là chuyện bốc phét để bịp những người không có dịp tìm hiểu những
gì ở xa. Di tích Lumbini đã được khởi sự phục hồi từ thập niên 1950 và
tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U-Thant đã thăm viếng năm 1967; mười ba quốc
gia đã phối hợp thành lập Ủy Ban Quốc Tế Phát Triển Lumbini từ năm 1972.
Trong khi, theo chính lời anh ta, anh ta chỉ mới sang đây lần đầu tiên
năm 1993. Có lẽ vì anh ta bốc phét quá đáng nên trên mạng đã có nhiều
người điều tra rồi lên tiếng lật tẩy anh ta. Họ đòi anh ta trả lời đã
đậu hai bằng tiến sĩ tại Paris năm nào, đã dạy bang giao quốc tế tại
những trường đại học nào v.v. Dĩ nhiên anh ta không trả lời. Họ cũng
viết thư cho chính quyền Népal để hỏi về anh ta và được trả lời rằng
không hề có một tổ chức nào mang tên "Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới
Nepal" cả. Chính quyền Népal cũng cho biết thêm rằng họ đã triệu tập anh
ta để hỏi về qui chế của chùa Việt Nam Phật Quốc Tự tại Lumbini nhưng
anh ta không hồi đáp, họ cũng đã khám chùa và phát hiện có ba con hạc bị
cắt lông cánh để không bay đi đâu được. Chim hạc là một giống chim quí
được bảo vệ nên tội này có thể bị phạt tới năm năm tù. Tôi hiểu vì sao
anh ta không còn ở Bodh Gaya và Lumbini nữa. Bây giờ thì anh ta tuyệt
tích giang hồ. Có lẽ đã trở lại cơ quan gốc, ban tôn giáo hoặc cục công
an chính trị, nhậu nhẹt với đồng nghiệp và kể thành tích đại náo Ấn Độ.
Tóm lại nhân vật "hoà thượng Thích Huyền Diệu" là một vụ bịp bợm do
chính quyền cộng sản Việt Nam dàn dựng ra trong mục đích quảng cáo cho
giáo hội Phật Giáo quốc doanh của họ và tranh thủ cảm tình của quần
chúng Việt Nam vốn gần gũi với đạo Phật. Họ coi Phật Giáo như một thứ
thuốc phiện để ru ngủ quần chúng. Âm mưu đã thất bại vì chúng ta đang
sống trong thời đại Internet, không có sự dối trá nào có thể kéo dài.
Đây là một xúc phạm nghiêm trọng không chỉ đối với Phật Giáo mà đối với
cả văn hóa và lịch sử Việt Nam.
Thật là đáng giận. Người ta có thể tự hỏi còn có gì của đất nước này không bị phá hoại?
(12/2013)
Nguyễn Gia Kiểng
Ghi chú
:
Giúp đỡ chùa Kiều Đàm Di
Chùa Kiều Đàm Di là một chùa nữ tu do ni sư Khiết Minh tạo dựng tại
Vaishali, nơi đức Phật giảng đạo lần cuối. Chùa vẫn còn cần nhiều yểm
trợ tài chính để hoàn tất và sau đó để hoạt động xã hội. Đây là một cố
gắng rất đáng được trân trọng và yểm trợ.
Có thể gửi tiền cho ni sư Khiết Minh như sau:
Tại Úc: ANZ Bank
Account name: Ho Thi Kim Yen
Bsb: 013422
Account number: 483960179
Tại Mỹ: Bank of America
Account name; Ho Thi Kim Yen or Thich Nu Khiet Minh
Account number 09325 – 74841
Tại Việt Nam: Vietnam Foreign Trade Bank
Tên tài khoản: Hồ thi Kim Yến hoặc Thích Nữ Khiết Minh
Số tài khoản 007.1.00. 447705.0 (Tiền VND) hoặc 007.1.37.218729 (USD)
Swift Code: BFTV VNVX007
Hoặc chuyển vào tài khoản của hội MAHAPRAJAPATI do Thich nữ Khiết Minh sáng lập tại Ấn Độ.
Name Mahaprajapati Trust
Address: Bodhgaya – Pachhatti- Gaya –Bihar –Pin.824 231
Account number 44792 0000 000 58
Bodhgaya Branch 824231 (Bank of India) – Gaya District – Bihar – India
PAN CARD No AWBTM 7594E