Giáo sư Shinichi Kitaoka
(Xoay trục) Vai trò của Đông Á và Nhật Bản tới năm 2032 – Siêu thế của Mỹ vẫn tiếp tục là không lay chuyển được
Tôi rất tò mò muốn biết trật tự quốc tế sẽ thay đổi thế nào trong hai
mươi năm tới. Liệu Trung Quốc, với tư cách là một thế lực đang lên, sẽ
trở thành một quốc gia bá chủ? Nhật Bản sẽ có chỗ đứng nào trên trường
quốc tế? Trong bài viết này, tôi sẽ tìm hiểu bức tranh chính trị quyền
lực ở Đông Á và các phương cách hướng tới việc phục hồi địa vị của Nhật
Bản như một người tham dự cuộc chơi trên sân trường toàn cầu.
Môn lịch sử là chuyên môn của tôi. Các nhà nghiên cứu lịch sử phân
tích các sự kiện trong quá khứ nhưng không đưa ra các phỏng chiếu cho
tương lai. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lịch sử biết rõ một điều về
tương lai, đó là không ai có thể biết trước được tương lai.
Vào năm 1945, khi Nhật Bản thua trận trong cuộc chiến gần đây nhất, ai có thể dự đoán rằng nước này sẽ bắt đầu một thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ chỉ trong vòng hơn 10 năm sau đó? Ai có thể dự đoán được Nhật Bản sẽ là nước chủ nhà tổ chức Thế vận hội mùa hè vào 19 năm sau và tổ chức Triển lãm thế giới tại Osaka 25 năm sau?
Vào năm 1945, khi Nhật Bản thua trận trong cuộc chiến gần đây nhất, ai có thể dự đoán rằng nước này sẽ bắt đầu một thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ chỉ trong vòng hơn 10 năm sau đó? Ai có thể dự đoán được Nhật Bản sẽ là nước chủ nhà tổ chức Thế vận hội mùa hè vào 19 năm sau và tổ chức Triển lãm thế giới tại Osaka 25 năm sau?
Vào năm 1868, khi công cuộc Minh trị Duy tân bắt đầu, ai có thể dự đoán được việc phế phiên, lập huyện ba năm sau đó, vào năm 1871? Ai có thể đoán trước được tầng lớp võ sĩ sa-mu-rai sẽ bị bãi bỏ tám năm sau, vào năm 1876 bằng việc chấm dứt trả tiền lương, thù lao cho tầng lớp này và cấm mang kiếm theo người? Ai có thể dự đoán được Nhật Bản sẽ dành được phần thắng trong một cuộc chiến với Trung Quốc dưới thời nhà Thanh 26 năm sau đó, cũng như với Nga 36 sau?
Tương lai là không thể đoán trước được.
Những khác biệt giữa Mỹ và Trung Quốc
Có rất nhiều dự đoán trung hạn và dài hạn được đưa ra trong thế giới
ngày nay, tập trung vào xu hướng xuống dốc của nước Mỹ và sự vươn lên
của Trung Quốc.
Vào ngày 11.12.2012, Cục tình báo quốc gia Mỹ, với vai trò điều khiển
các cơ quan thu thập thông tin tình báo và cung cấp thông tin cho giới
điều hành chính sách, đã cho ra báo cáo Những xu hướng toàn cầu 2030,
một phân tích có tích dự đoán cho kinh tế thế giới trong vòng 15 đến 20
năm tới, dự báo rằng Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế
giới vào năm 2030 và Mỹ sẽ giữ nguyên được ảnh hưởng lớn nhất trong số
các thế lực dẫn đầu thế giới nhưng sẽ không đủ khả năng để giữ vị thế
siêu cường duy nhất, nguyên nhân là do sự phát triển kinh tế của Trung
Quốc và Ấn Độ. Bản báo cáo cũng chỉ ra rằng sẽ không một nước nào, dù
Mỹ, Trung Quốc hay bất kỳ nước nào khác, đóng vai trò cường quốc bá chủ.
Tại Trung Quốc thì có nhiều nhìn nhận khác nhau. Ví dụ như ông Wang
Jisi, chủ nhiệm khoa của Trường nghiên cứu quốc tế thuộc Đại học Bắc
Kinh, vốn được biết tới như một người theo chủ nghĩa thực dụng tỉnh táo,
cho rằng Trung Quốc cần nhiều thập kỷ, thậm trí 100 năm nữa để đuổi kịp
Mỹ theo đúng nghĩa của khái niệm này, nhưng ông ta lại phê phán Mỹ
không cư xử với Trung Quốc một cách công bằng khi Mỹ cho rằng vị thế
siêu việt về dân chủ của nước này là hiển nhiên.
Nhưng theo ông Yan Xuetong, chủ nhiệm Viện quan hệ quốc tế hiện đại
thuộc Đại học Tsinghua, một người được biết đến như một nhân vật có lập
trường cứng rắn trong quan hệ đối ngoại, cho rằng hiện thời Trung Quốc
đã có sức mạnh tương đương với Mỹ và giữa hai nước không có quan hệ cộng
tác khác nào khác ngoài điều hành xử lý xung khắc. Ông Yan biện minh
rằng yếu tố đạo đức, vốn sẵn có trong tư tưởng Trung Quốc, là siêu việt
so với nền dân chủ nước Mỹ.
Tôi thì tôi nhìn nhận quan hệ giữa hai nước Mỹ và Trung Quốc trong bối cảnh sau đây.
Trước hết, Mỹ và Trung Quốc có thể so sánh được với
nhau về mặt diện tích lãnh thổ, nhưng việc sử dụng đất đai cho sản xuất
và nhà cửa của dân cư có thể ở mức 80% cho trường hợp nước Mỹ, so với
mức dưới 15% cho Trung Quốc, một nước có nhiều núi cao và sa mạc. Kết
quả là nước Mỹ thực tế có thể coi là hơn 5 lần rộng lớn hơn Trung Quốc.
Thứ hai, lượng dân số trong tuổi lao động ở Trung
Quốc sẽ đạt đến đỉnh điểm trong vài năm tới, sau đó sẽ bắt đầu giảm sút.
Theo một dự đoán tầm trung của Cục kinh tế và xã hội Mỹ, tổng dân số
của Trung Quốc sẽ bắt đầu giảm từ năm 2030. Sẽ không phải là dễ dàng để
giữ được tăng trưởng kinh tế một khi lực lượng dân số trong tuổi lao
động giảm và tăng trưởng sẽ còn khó khăn hơn một khi tổng dân số quốc
gia đi xuống.
Ngược lại, dân số nước Mỹ được dự đoán sẽ tăng lên mức 400 triệu vào năm 2030 và sẽ tiếp tục tăng cho tới khoảng năm 2050.
Thứ ba, vị thế siêu việt của Mỹ về quân sự sẽ tiếp
tục là không lay chuyển được. Vì sức mạnh quân sự là kết quả của tích
lũy, Trung Quốc sẽ cần nhiều thập niên, thậm chí là không bao giờ vượt
qua được Mỹ trong năng lực quân sự toàn diện ngay cả trong trường hợp
ngân sách quân sự thường niên của Trung Quốc vượt trên ngân sách quân sự
của Mỹ. Trung Quốc có thể so sánh sức mạnh quân sự với Mỹ trong khu vực
nhưng không thể vượt qua đối thủ trong phương diện toàn cầu.
Thứ tư, Mỹ giữ chắc vị trí đầu bảng trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ, lĩnh vực mà kinh tế và quân sự dựa vào để phát
triển. Các trường đại học của Mỹ đóng vai trò là các trung tâm trong
lĩnh vực này, sử dụng một lượng tài chính lớn cho việc lựa chọn nhân tài
từ khắp thế giới tới. Không có nước nào có khả vọng đuổi kịp nước Mỹ
trong khía cạnh này.
Hệ thống chính trị tạo nên điểm thứ năm. Nước Mỹ
thường được coi là một quốc gia của người WASP – người da trắng gốc
Anglô Sác Xông theo đạo Tin lành. Niềm tin rằng sẽ không có một cá nhân
nào ngoài lực lượng này có thể trở thành tổng thống nước Mỹ lần đầu tiên
bị lung lay khi J.F.Kennedy trở thành tổng thống vào năm 1960. Tổng
thống Jimmy Carter được bầu lên từ miền Thẳm Nam (Deep South) và là một
người theo đạo Baptist, một đạo được cho là không thông thường so sánh
với các tổng thống Mỹ trước đó.
Hệ thống chính trị nước Mỹ có sức mạnh từ việc chấp nhận các lực
lượng thiểu số. Cho dù đôi lúc có mất ổn định, như trong trường hợp tổng
thống G.W. Bush với định hướng theo chủ nghĩa đơn phương hay nhìn nhận
cực đoan tương tự như những người theo đề xướng Tiệc trà (Tea Party), hệ
thống này cuối cùng thường đạt được khả tính.
Một người Mỹ gốc Phi đã trở thành tổng thống nước Mỹ vào năm 2008 và
ông Mitt Romney, người theo đạo Móc-môn, đã có một cuộc tranh cử mạnh mẽ
trong đợt bầu cử tổng thống năm 2012.
Đối lại, khả năng điều chỉnh của hệ thống chính trị của Trung Quốc
thường cao về mặt tức thời, ngắn hạn nhưng không thể chối cãi được là nó
đã đặt xã hội Trung Quốc vào một tình huống dễ bùng nổ vì để bất bình
xã hội tích lũy ngày càng nhiều. Chế độ một đảng có thể tồn tại tiếp chỉ
trong ngày một ngày hai.
Ngoài so sánh sức mạnh quốc gia như trên, ta hãy phân tích tác động quốc tế của hai nước.
Bình đẳng giữa các quốc gia độc lập là một nguyên tắc trong thế giới
ngày nay. Đó là một nguyên tắc được thiết lập sau chiến tranh TG II, từ
đó trở đi mâu thuẫn giữa các quốc gia phần lớn được giải quyết một cách
hòa bình.
Trung Quốc thường được coi là ở trung tâm của Đông Á trong thời tiền
cận đại. Các quốc gia ở Đông Á chấp thuận vị trí siêu việt của Trung
Quốc và cam kết phục tùng, ngược lại Trung Quốc bảo vệ các quốc gia này.
Các nước láng giềng trả cống nộp cho Trung Quốc và ngược lại nhận được
nhiều hơn từ phía Trung Quốc. Có vẻ như hệ thống quốc tế có cấp bậc kiểu
này vẫn được người Trung Quốc giữ lại trong suy nghĩ của họ. Trung
Quốc, một nước tuyên bố ủng hộ các nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có
lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ trong những năm 50 thế kỷ
trước, nay lại đòi hỏi phải được cư xử như với một quốc gia hạng nhất,
như đã thấy trong nhìn nhận của các vị giáo sư nêu ở trên.
Pháp quyền ở nghĩa sâu sắc của khái niệm này không tồn tại ở Trung
Quốc. Trong truyền thống, Trung Quốc không có luật pháp kiểm chế các vị
hoàng đế. Ngay cả ngày nay, Trung Quốc không có luật pháp kiểm tra người
lãnh đạo tối cao. Ở các biển Đông và Nam Trung Quốc, Trung Quốc cho tàu
vào đánh cá ở các vùng lãnh hải các nước khác tuyên bố là địa phận hay
vùng kinh tế đặc quyền của họ, hộ tống thuyền đánh cá bằng tàu quân sự
trá hình thành “tàu phục vụ công cộng” – thực chất là biến các vùng biển
này thành địa phận hay vùng kinh tế đặc quyền của Trung Quốc.
Hoạt động kiểu trên rõ ràng là đi ngược lại nguyên tắc giải quyết mâu
thuẫn một cách hòa bình. Ý tưởng coi trọng luật quốc tế không hề tồn
tại hoặc rất yếu kém ở Trung Quốc.
Tất nhiên là các cường quốc thường hay giải quyết vấn đề bằng sức
mạnh hơn là bằng luật pháp. Việc Mỹ không phê chuẩn Công ước Liên hợp
quốc về Luật biển ai cũng biết. Trong khá nhiều trường hợp, Mỹ đã dùng
đến luật pháp quốc tế một cách tùy ý và ép buộc các quốc gia khác phải
theo ý mình.
Trong số các quốc gia bảo vệ quyền bình đẳng giữa các quốc gia độc
lập và giải quyết hòa bình mọi xung đột tồn tại khác biệt lớn, có các
quốc gia thường không tuân thủ theo các nguyên tắc này trong hành động
thực tiễn, có các quốc gia không tuân thủ theo ngay từ đầu. Theo tôi,
khác biệt giữa Mỹ và Trung Quốc trong khía cạnh này không thể chối cãi
được là lớn.
Liên minh đa phương trong thế kỷ 21
Nhật Bản đứng ở đâu trong tình thế này?
Ông Yan Xuetong nhấn mạnh rằng Nhật Bản nên tự xác định là một quốc
gia châu Á, cắt đứt quan hệ quỵ lụy của mình với Mỹ và rằng Trung Quốc
sẽ không đối xử với Nhật Bản một cách không đúng mực nếu Nhật Bản làm
như vậy. Suy nghĩ này đại diện cho một ý tưởng về trật tự đặt trên cơ sở
người mạnh ban phước cho kẻ yếu. Là một thành viên của châu Á có nghĩa
là gì? Nhật Bản từ lâu đã nói “không” trước cái gọi là siêu đẳng của
Trung Quốc. Ở Đông Á, Nhật Bản có lẽ là nước duy nhất không coi sự siêu
đẳng của Trung Quốc như một điều hiển nhiên. Nhật Bản có truyền thống
pháp quyền. Ở Nhật Bản, nơi quyền lực và thẩm quyền được phân chia từ
thời xa xưa, tồn tại một thời kỳ dài trong đó các vị hoàng đế hay mạc
chế shogun không có được quyền lực tối cao.
Để kiểm chế các đối tượng tham dự chính trường, luật pháp được xây
dựng và việc tuân thủ các qui tắc đã trở thành một truyền thống. Mặc dù
có một thời kỳ đi lệch hướng trong các mối quan hệ quốc tế trong những
năm 30 của thế kỷ 20, Nhật Bản luôn trung thành với nguyên tắc giải
quyết mâu thuẫn xung đột một cách hòa bình, Nhật Bản cũng luôn tôn trọng
quyền con người như quyền tự trọng, tự do và an toàn cá nhân trong một
quãng thời gian dài.
Theo nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế Angus Maddison, Trung Quốc đã là
cường quốc nền kinh tế lớn nhất thế giới trong những năm 20 của thế kỷ
19, sau Trung Quốc là Ấn Độ. Thế giới đang quay trở lại thời kỳ này hay
sao?
Tôi bác bỏ điều này. Các thế kỷ 19 và 20 được đặc trưng bởi vị thế
siêu đẳng của châu Âu và Mỹ (cùng với Nhật Bản), nhưng không bị hạn chế
bởi sự siêu đẳng này vì các siêu cường trên đã tạo dựng ra một thời kỳ
lịch sử trong đó khái niệm tự do, dân chủ, quyền con người và pháp quyền
được xây dựng và chấp nhận rộng rãi. Trong quan hệ quốc tế, hai thế kỷ
này đã mở đường hướng tới ý tưởng giải quyết xung đột một cách hòa bình,
một phần như là kết quả của hai cuộc chiến tranh thế giới.
Ngay cả nếu như các quốc gia châu Á lớn mạnh lên thành cường quốc
trong trật tự thế giới trong thế kỷ 21, sự lớn mạnh của chúng phải được
đặt nền tảng trên các nguyên tắc trên.
Cách nhìn nhận này được chứng thực qua trường hợp Miến Điện, vốn từng
được coi là nước được Trung Quốc bảo trợ tới thời gian gần đây, nhưng
hiện cho thấy là đang chia tay với Trung Quốc.
Khi một quốc gia đạt được vị thế độc lập, quốc gia này không muốn
quay trở lại vị trí một nước lệ thuộc vào một nước lớn. Hướng đi này
không phải là dễ thực hiện cho một nước nằm gần với Trung Quốc, với dân
số chỉ vài triệu, thí dụ như Lào hay Cam-pu-chia. Nhưng Miến Điện, với
dân số 65 triệu, Việt Nam với dân số 80 triệu và In-đô-nê-xia với dân số
trên 200 triệu không lập tức công nhận vị thế siêu đẳng của Trung Quốc,
Phi-líp-pin cũng không làm như vậy.
Cho dù Thái Lan là nằm dưới ảnh hưởng của Trung Quốc, dân số của các
quốc gia Đông Nam Á kể trên cộng lại sẽ đạt tới 500 triệu vào năm 2030,
gần bằng một nửa dân số Trung Quốc. Ở phía nam, Ấn Độ với dân số được dự
đoán là sẽ đạt 1,5 tỷ, vượt dân số Trung Quốc, cũng như nhiều quốc gia
khác, luôn coi pháp quyền là một nguyên tắc quan trọng.
Trong thời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Quốc, sáu nước nằm ở phía đông
nước Tần là các nước Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Chu và Sở đã lập nên một
liên minh dọc chống lại nước Tần, một triều đại nổi lên ở phía Tây.
Nhưng nước Tần đã sử dụng chiến lược thọc nêm bẻ gẫy liên minh này bằng
cách ký kết hòa ước lập liên minh ngang với từng nước trong sáu thành
nước trên, thống nhất Trung Quốc. Qua sự kiện lịch này, khái niệm “gasso
renko” (lập liên minh đa phương chống lại một kẻ thù mạnh và một liên
minh riêng rẽ với một kẻ thù mạnh) đã nảy sinh.
Việc gì đang xảy ra ở Đông Á hiện nay giống hệt diễn biến lịch sử
trên. Trung Quốc ban phát những lợi ích thương mại hào phóng cho những
nước dễ bảo, tạo dựng bất lợi thế cho những nước khó bảo. Có nhiều cách
để họ làm như vậy. Chuối nhập khẩu từ Phi-líp-pin bị hỏng phải bỏ đi vì
giải quyết thuế quan quá lâu. Một thay đổi nhỏ trong khai báo hải quan
có thể gây thương tổn cho các nước khác. Trung Quốc khó có thể tự công
nhận hành vi kiểu này của họ là sai trái, cũng như khó chấp nhận rằng
các vấn đề chính trị và thương mai phải được nhìn nhận tách biệt.
Mâu thuẫn là có tồn tại ngay cả giữa Nhật Bản và Úc, thí dụ như vấn
đề săn bắt cá mập. Nhưng khó có thể nghĩ đến việc Úc vì thế sẽ hạn chế
xuất khẩu quặng sắt sang Nhật. Quan điểm nhìn nhận đúng đắn như vậy là
nền tảng của các mối quan hệ quốc tế hiện đại.
Sự có mặt của Mỹ như một cường quốc tạo ra hậu thuẫn cho liên minh đa
phương hiện đại. Ở phía bắc là Nga, vẫn luôn là một thế lực quân sự
lớn, và Úc ở vị trí đông nam. Ấn độ nằm ở phía nam sẽ sớm trở thành quốc
gia với dân số đông nhất thế giới. Xét từ cân bằng lực lượng, Trung
Quốc ngày nay còn thiếu nhiều để có thế mạnh của triều đại nước Tần
trong lịch sử.
Điều có ý nghĩa quyết định ngày nay là nguyên tắc quan hệ quốc tế.
Một trật tự quốc tế tự do tôn trọng pháp quyền và tạo điều kiện cho cạnh
tranh là có hiệu quả cao hơn nhiều một quốc gia bá quyền tìm cách chế
ngự các nước láng giềng thông qua chính sách ban phát phước lợi chọn
lọc. Vì thế, một trật tự theo cấp đằng với Trung Quốc tiền hiện đại ở vị
trí trung tâm sẽ khó mà có thể thiết lập được ở Đông Á, trừ các trường
hợp quá đặc biệt, cực đoan. Tuy nhiên, một trật tự quốc tế tự do không
thể đạt được mà không có các điều kiện cần thiết. Đòi hỏi tối thiểu nhất
là các quốc gia có quan tâm phải nỗ lực tôn trọng trật tự để có thể
phát triển tốt.
Nhật Bản, với tư cách là lực lượng kinh tế và quân sự lớn mạnh nhất
trong liên minh đa phương, đang nắm trong tay chiếc chìa khóa. Nhật Bản
phải lập tức xây dựng lại nền kinh tế của mình, tăng cường năng lực quốc
phòng quốc gia, đẩy mạnh liên kết với các nước láng giềng. Trong thời
gian áp dụng các biện pháp chống giảm phát, tăng tốc độ tăng trưởng kinh
tế, giảm nợ nhà nước thông qua tăng thuế và giảm bớt phúc lợi đảm bảo
xã hội, Nhật Bản ít nhất phải lập ra Hội đồng an ninh quốc gia, thay đổi
cách hiểu bản Hiến pháp của đất nước để cho phép thực hiện quyền tự vệ
tập thể, tiếp nhận các trách nhiệm lớn hơn thông qua thay đổi chính sách
chỉ phòng vệ và chia sẻ vai trò với Mỹ, tăng cường hiện đại hóa và hiệu
quả hóa trang thiết bị thông qua đẩy mạnh ngân sách cho quốc phòng.
Một điều phải được tính đến là cần thiết vạch định rõ ràng phân giới
giữa hiện thực thực tế và chuyển biến tư tưởng về phía hữu. Để thành lập
Hội đồng an ninh quốc gia, thay đổi chính sách chỉ phòng vệ, tăng ngân
sách cho quốc phòng và trong một chừng mực nhất định nới rộng hay bãi bỏ
Mục hai trong chương 9 của Hiến pháp Nhật Bản (không sở hữu lực lượng
vũ trang) là những cách làm vẫn thường được tiến hành ở các nước khác và
không có gì là khác thường. Tất nhiên là có các cá nhân ở trong và
ngoài nước sẽ phê phán các thay đổi trong chính sách nêu ở trên, coi đó
như là bước đi lệch về phía hữu, nhưng họ sai lầm.
Tuy vậy, khẳng định Nhật Bản chưa từng xâm chiếm các nước khác hay
Nhật Bản là cao đẳng hơn các nước láng giềng không những chỉ làm nảy
sinh nhiều câu hỏi về sự thật lịch sử mà còn cản trở đoàn kết với các
nước liên quan. Chúng đại diện cho một bước đi lệch về phía hữu cần phải
tránh vì lợi ích không chỉ của riêng Nhật Bản mà còn của toàn thế giới.
Như một điểm có tính quan trọng quyết định, trật tự tại Đông Á phải
được giữ nguyên tới năm 2030 khi đà xung lượng của Trung Quốc sẽ yếu đi
do hậu quả của các yếu tố đã phân tích ở trên. Nhìn nhận này không hề
coi Trung Quốc như thù địch vì Trung Quốc phải có được khả năng phát
triển hoàn toàn, toàn diện trong khuôn khổ của trật tự này. Đây không
phải là cái gì khác ngoài một liên minh nhằm hướng vào việc thúc đẩy
Trung Quốc nhận hiểu ra và trở thành một lực lượng chủ yếu.
Như ở phần đầu bài viết, tôi đã nói tới công cuộc Minh trị Duy tân và
hồi phục sau chiến tranh. Có hai điều kiện cho phép Nhật Bản phát triển
trên mức hoạch định của thời đó, đó là tăng trưởng dân số và lãnh đạo
kiệt xuất.
Nhật Bản nên thực sự để ý tới vấn đề dân số, không cho phép để quốc
gia này bị bỏ qua, thậm chí trở thành lu mờ trong các vấn đề thế giới.
Không có bài thuốc chữa nào công hiệu lập tức cho vấn đề này. Tăng
trưởng dân số không thể có được ngay. Tuy nhiên, là khác biệt lớn để có
chỉ số sinh sản 1,2 hay 1,8. Mọi biện pháp có thể khả thi phải nên được
áp dụng để ngừng giảm sút dân số, cho dù chỉ ở mức thấp, và nỗ lực đạt
được tăng trưởng nếu có thể.
Vấn đề ổn định chính trị thì không cần phải giải thích rõ hơn. Đã có
lực lượng lãnh đạo mạnh, dẫn đầu bởi ông Toshimichi Okubo và ông
Hirobumi Ito trong thời kỳ Minh trị Duy tân. Trong thời kỳ sau chiến
tranh, đã có các thủ tướng Shigeru Yoshida, Nobusuke Kishi, Hayato Ikeda
hay Eisaku Sato lãnh đạo Nhật Bản.
Những đảo lộn chính trong công cuộc Minh trị Duy tân và những thay
đổi lớn sau thất bại trong cuộc chiến tranh cuối đây đã là cần thiết để
giúp khôi phục lại ổn định chính trị. Mượn lời của ông Joseph
Schumpeter, chúng có thể được mô tả như một “hủy diệt có tính tạo dựng”
trong chính trị.
Hủy diệt có tính tạo dựng như thế có thể có hay không, điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới trật tự thế giới trong năm 2030.
Ông Shinichi Kitaoka đã từng là giáo sư tại Ban luật và chính trị
thuộc trường đại học Tokyo, giáo sư Khoa luật trường Đại học Tokyo, đại
sứ đại diện cho Nhật Bản tại Liên hợp quốc. Hiện nay ông là giáo sư
Viện đại học quốc gia nghiên cứu chính sách, hiệu trưởng trường Đại học
quốc tế Nhật Bản.
Bài viết này được lấy ra từ tạp chí Ngoại giao (Diplomacy) vol. 17 (do Bộ ngoại giao Nhật Bản xuất bản).