Đoan Trang
Dưới đây là bài viết thứ bảy trong loạt bài “Nói với mình và các bạn: Vẻ đẹp của chính trị”. Mục đích mà loạt bài hướng tới là góp phần giúp độc giả, nhất là các bạn trẻ, hiểu hơn về chính trị, về sự tham gia, về tự do ngôn luận và sự phân biệt giữa tự do ngôn luận với xúc phạm người khác, về hiến pháp, quyền lập hiến và quyền tẩy chay hiến pháp, bất tuân dân sự, về kỹ thuật bầu cử và làm thế nào để có bầu cử tự do, công bằng.* * *
Còn mục đích của bài này là nói về một vài hình thức hoạt động chính trị khác: biểu tình, đình công, và một hình thức vẫn còn tương đối xa lạ với người dân Việt Nam, đó là tẩy chay.
Phạm Đoan Trang
Kỳ 7:
BIỂU TÌNH, ĐÌNH CÔNG VÀ TẨY CHAY
Sau những cuộc biểu tình (có thể chỉ vài chục, cũng có lần tới vài
trăm người tham gia) ở Hà Nội và TP. HCM để chống chính sách đối ngoại
hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, đến giờ, số đông chúng ta hẳn
là đã hình thành một khái niệm nào đó về biểu tình – cho dù là tán đồng
hay phản đối hành động đó.
Trên lý thuyết, biểu tình được định nghĩa là một hành động chính trị,
trong đó nhiều người tham gia tuần hành cùng nhau nhằm thể hiện một
chính kiến, ví dụ bày tỏ sự ủng hộ hoặc phản đối một cá nhân/ tổ chức/
sự việc nào đó. Việc tuần hành có thể được thực hiện bằng đi bộ, đạp xe
hoặc sử dụng phương tiện khác. Việc tuần hành có thể kết hợp với gây
tiếng động – gọi loa, gõ trống, khua chiêng, thổi kèn, hô khẩu hiệu,
hát. Trong nhiều cuộc biểu tình ở nước ngoài, người ta còn đốt cả ảnh,
hình nộm của quan chức. Tuần hành thường bắt đầu và/ hoặc kết thúc bằng
một cuộc tụ tập tại một địa điểm nhất định, tại đây người ta cùng đọc và
nghe diễn văn, tuyên cáo, tuyên bố, v.v. Phong toả đường đi lối lại, và
ngồi bệt (tọa kháng) cũng được coi là biểu tình – trường hợp sau được
gọi là “biểu tình ngồi”.
Chẳng hạn, để phản đối chính quyền Trung Quốc tham lam, ưa gây hấn và
bắt nạt các quốc gia nhỏ yếu, hoặc phản đối chính sách đối ngoại thiếu
minh bạch và thiếu nhất quán của Nhà nước Việt Nam trong vấn đề Biển
Đông, một nhóm công dân ở Hà Nội có thể tuần hành đến Đại sứ quán Trung
Quốc hoặc Bộ Ngoại giao Việt Nam, tụ tập trước cổng các cơ quan này, tổ
chức mít-tinh, ra thông cáo, đọc diễn văn v.v.
Biểu tình có thể là phi bạo lực hoặc bạo lực, hoặc lúc đầu thì ôn hoà
nhưng về sau lại nảy sinh bạo lực – giữa công an, cảnh sát với những
người tuần hành, hoặc giữa chính những người tham gia với nhau, ví dụ
nhóm ủng hộ mâu thuẫn, đánh lộn với nhóm phản đối. Cho nên, luật pháp ở
các quốc gia đa phần đều loại bỏ bạo lực, chỉ chấp nhận biểu tình ôn
hoà; và sự hiện diện của lực lượng công an, cảnh sát chỉ là để ngăn chặn
bạo lực xảy ra.
Với những hành động được chấp nhận (tuần hành, hô khẩu hiệu, hát,
v.v.), các bạn có thể thấy ngay là không cuộc biểu tình nào lại không
mang tính chất “gây rối trật tự công cộng” ở một mức độ nào đó. Nói cách
khác, đã là biểu tình thì phải tạo chú ý, mà đã tạo chú ý thì những
người biểu tình không thể không làm ồn; chưa nói đã là một cuộc tụ tập
nơi công cộng thì đương nhiên phải có tổ chức. Lấy lý do “gây rối trật
tự công cộng” để giải tán biểu tình chỉ là một chiêu bài để đàn áp quyền
tự do tụ tập (freedom of assembly) và tự do thể hiện chính kiến
(freedom of expression, còn được dịch là “tự do biểu đạt”) của người
dân.
(Chúng ta sẽ bàn về những mặt hạn chế của biểu tình trong kỳ sau của bài viết này.)
Đình công – quyền của người lao động
Theo nghĩa nguyên thuỷ, đình công chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản
xuất và dịch vụ, khi những người làm công tổ chức ngừng làm việc trên
quy mô tập thể để phản đối hoặc ra yêu sách nào đó với giới chủ: tăng
lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện vệ sinh, an toàn lao động, v.v.
Tuy nhiên, trên thực tế, cũng có khi đình công vươn ra ngoài quan hệ
giữa người lao động và giới chủ và dẫn đến thay đổi trong chính sách của
nhà nước, thậm chí thay đổi chính thể. Ví dụ đáng nhớ nhất là những
cuộc đình công của phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan những năm
1980.
Ở Việt Nam, theo báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động, từ khi Luật Lao
động có hiệu lực (năm 1995) cho đến năm 2012, cả nước xảy ra 4.922 cuộc
đình công (nguồn: Dân Trí ngày 6/4/2013). Bài báo của Dân Trí cũng cho
biết, hầu hết đình công đều tự phát, “100% không do công đoàn cơ sở tổ
chức và lãnh đạo”, “không theo đúng trình tự pháp luật quy định, có xu
hướng lây lan từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác”.
Nếu điều này là có thật, nhà hoạch định chính sách có trách nhiệm sẽ
phải nhận thấy ít nhất hai câu hỏi đặt ra: 1. Trình tự pháp luật quy
định có vấn đề gì không? 2. Công đoàn cơ sở đã thật sự đại diện cho
người lao động chưa? Trong một xã hội dân chủ, nếu nhà hoạch định chính
sách không nhận ra vấn đề thì sẽ có những cá nhân, tổ chức dân sự vận
động để ông/bà ta phải “làm gì đó cho công nhân đi”, bằng không sẽ mất
chức. Ở Việt Nam thì chưa được như vậy, thậm chí, ngay cả chuyện bạn đến
gặp Chủ tịch Công đoàn đề nghị tổ chức đình công cũng đã là việc không
nên làm – vì… bạn có chắc là Công đoàn đứng về phía bạn không?
“Tẩy chay các chú”
Tẩy chay là việc một số người/ nhóm (tức là cá nhân hoặc tổ chức) từ
chối giao thiệp với một đối tượng nào đó, ví dụ một doanh nghiệp bóc lột
lao động, hoặc toàn bộ hàng hoá của các doanh nghiệp bán hàng giả hàng
rởm, gây ô nhiễm môi trường, đối xử thô lỗ và từng lăng mạ khách hàng
v.v.
Chuyện tẩy chay không còn là mới mẻ, nhất là trong nền kinh tế toàn
cầu hoá. Ví dụ, ở Hàn Quốc từng có phong trào tẩy chay thịt bò Mỹ (năm
2008), còn tại Trung Quốc, khi tranh chấp biển đảo với Nhật Bản leo
thang, nhiều hiệu sách Bắc Kinh đã ngừng bán các ấn phẩm của Nhật. Tương
tự, doanh nghiệp xuất khẩu chuối Philippines khốn đốn khi đối tác Trung
Quốc đồng loạt từ chối nhập khẩu để trả đũa Philippines trong tranh
chấp chủ quyền. Ngay sau sự cố này, cơ quan xúc tiến thương mại của
Philippines đã phải tính đến khả năng tìm kiếm, mở rộng thị trường hoa
quả ở các nước khác, như châu Âu.
Tại Việt Nam, vào năm 1919, cũng từng có phong trào “tẩy chay các
chú”, tức là tẩy chay các chú khách (doanh nhân Hoa kiều). Tinh thần
chung là “người Việt Nam buôn bán với nhau, không mua hàng của Hoa
kiều”. Có tài liệu nói rằng phong trào được sự hưởng ứng của cả giới
doanh thương lẫn sinh viên, viên chức tại Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng,
Nam Định… 89 năm sau, vào năm 2008, với sự cố Vedan xả nước “giết” sông
Thị Vải, một chiến dịch tẩy chay đã nổi lên, khởi đầu từ những lời kêu
gọi trên mạng Internet. Nhiều siêu thị lớn tại Hà Nội và TP.HCM đồng
loạt ngừng phân phối sản phẩm bột ngọt Vedan. Không rõ chiến dịch này
kéo dài bao lâu.
Tuy nhiên, về căn bản, tẩy chay rất hiếm xảy ra ở Việt Nam, ngay cả
trong những chuyện không liên quan gì đến chính quyền, nghĩa là chẳng có
gì nhạy cảm: Như các hàng “phở quát, cháo chửi” khét tiếng ở thủ đô Hà
Nội chẳng hạn, chưa bao giờ họ nghĩ đến khả năng có thể bị tẩy chay.
Một nhân viên kiểm toán xã hội ở tập đoàn Bureau Veritas từng cho
người viết bài này biết: “Người tiêu dùng có ý thức cao là người không
chỉ quan tâm tới chất lượng và giá cả, mà còn rất quan tâm tới một điểm
thứ ba, là sản phẩm được làm ra như thế nào. Ở các nước phát triển,
người ta sẵn sàng tẩy chay một sản phẩm nếu họ biết rằng nhà sản xuất ra
nó sử dụng lao động trẻ em, hay gây ảnh hưởng độc hại đến môi trường.
Chỉ cần một lần vi phạm bị phát hiện, cả một thương hiệu nổi tiếng có
thể đi tong”. Đối chiếu với đó, các bạn có thể thấy là người tiêu dùng
Việt Nam còn chưa có ý thức bảo vệ chính mình, nói gì đến ý thức bảo vệ
môi trường hay quan tâm đến quyền lợi của những người lao động khác.
Bên cạnh việc người dân thiếu hiểu biết về quyền lợi của mình, sự
thiếu vắng các tổ chức dân sự đúng nghĩa cũng là nguyên nhân dẫn đến
chuyện tẩy chay – với ý nghĩa là một hành động chính trị – hầu như không
được sử dụng để gây áp lực. Tẩy chay trên mạng (như với vụ Vedan) có lẽ
vẫn quá yếu, không đủ tạo hiệu quả đáng kể nào.
Một cuộc biểu tình ở Hà Nội, sáng chủ nhật 9/12/2012. Ảnh: AFP
Đình công, biểu tình trong văn hoá chính trị Việt Nam
Trở lại với chuyện biểu tình, có thể bạn cũng đã nhận thấy đó là một
hình thức hoạt động chính trị có hiệu quả đối với những người tham gia, ở
chỗ nó tác động mạnh tới cộng đồng, nó gây chú ý và khiến người biểu
tình có thể tạo sức ép chính trị. Nhưng đối với những người khác, nó
không thể không gây thiệt hại dù ít dù nhiều: Chẳng hạn, nó cản trở
quyền tự do đi lại của một số công dân, có khi là với rất nhiều công
dân. Với đình công cũng vậy. Trong lịch sử, từng có những cuộc biểu tình
và đình công của ngành hàng không, đường sắt, taxi, làm trì trệ, thậm
chí gây tê liệt giao thông của cả một thành phố.
Do vậy, để nhìn nhận sự việc một cách khách quan, đến đây, chúng ta
sẽ đi sâu vào các khía cạnh có thể gây tranh cãi của biểu tình trong bối
cảnh văn hoá chính trị Việt Nam, nơi số đông dân chúng vẫn giữ tâm lý
sợ nhà nước, chưa suy nghĩ nhiều về nhân quyền và chưa biết cách “thực
hành dân chủ”.
Tuy nhiên, đó là câu chuyện của kỳ sau.
Kỳ sau: Đình công, biểu tình trong văn hoá chính trị Việt Nam