Liên-Hằng Nguyễn
Dương Lệ Chi
Khi cuộc chiến ở Afghanistan kéo dài mà không nhìn thấy chiến
thắng dứt khoát cho Hoa Kỳ, và quân đội Mỹ bắt đầu rút quân, so với cuộc
chiến Việt Nam một lần nữa lại được bàn tán khắp nơi, 50 năm sau khi cả
Washington và Hà Nội đã quyết định tăng cường lực lượng ở miền Nam,
Việt Nam. “Chỉ lướt qua các từ ngữ quan trọng về chiến tranh Việt Nam”,
Tom Engelhardt đã viết trong tạp chí Mother Jones, lưu ý “có ‘vũng lầy’ ”
và “ý tưởng về chiến thắng ‘trái tim và lý trí’” cũng như “quả bom có
thể, hay trong kỷ nguyên của chúng ta, có thể cho máy bay không người
lái, ‘các mật khu’ ở nước ngoài” và thậm chí ”phiên bản một người đàn
ông Mỹ Lai”. Mặc dù những điều tương tự này đặc biệt hấp dẫn các nhà
bình luận – những người xem cuộc chiến của Mỹ ở Afghanistan thậm chí còn
vô nghĩa hơn cuộc chiến ở Việt Nam và chủ trương một sự rút quân nhanh –
nhưng họ sai lầm nghiêm trọng.
Trong nhiều vấn đề rút ra từ những bài học ở Việt Nam và áp dụng vào
Afghanistan, đó là lịch sử của chiến tranh Việt Nam thường bị hiểu lầm
hoàn toàn. Lịch sử của cuộc chiến này liên tục thay đổi khi có bằng
chứng mới xuất hiện, đặc biệt là từ phía bên kia. Do không chú ý nhiều
về việc tìm hiểu động cơ của kẻ thù, các động lực bên trong và các mối
quan hệ đối ngoại, chúng ta luôn có một hình ảnh không đầy đủ và thiếu
chính xác về cuộc chiến tranh đó.
Nếu chúng ta muốn học hỏi từ quá khứ, thì nên từ bỏ bức màn tre mà từ
lâu đã giấu việc Bắc Việt ra quyết định, để xua tan một số huyền thoại
hằn sâu về cuộc chiến tranh thường được viện dẫn đó.
Người ta thường tin rằng miền Bắc Việt quyết định đi đến chiến tranh
trong năm 1959-1960 là để cứu cuộc nổi dậy ở miền nam khỏi bị diệt trừ
và Đảng Cộng sản có được sự ủng hộ không mệt mỏi của người dân Việt Nam
cho đến khi chiến tranh kết thúc năm 1975. Nhưng bằng chứng gần đây tiết
lộ rằng, quyết định của đảng đi đến chiến tranh ở miền Nam, Việt Nam,
có mối liên hệ mật thiết với các vấn đề ở trong nước. Chiến tranh cách
mạng là một cách hiệu quả để đánh lạc hướng sự chú ý từ các vấn đề trong
nước, gồm một chiến dịch cải cách ruộng đất tàn phá, một phong trào trí
thức bất đồng chính kiến và một kế hoạch của chính phủ không thành
công để chuyển đổi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Một trong những quan niệm sai lầm lớn nhất của cuộc chiến Việt Nam
là, ông Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo lỗi lạc của Bắc Việt. Thực tế, ông
Hồ là bù nhìn, trong khi Lê Duẩn, một người đứng bên lề lịch sử, lại là
một kiến trúc sư, nhà chiến lược chính và là chỉ huy trưởng của nỗ lực
chiến tranh của Bắc Việt. Ông Duẩn nghiêm khắc, không ồn ào, xa lánh sự
chú ý, nhưng ông có ý chí sắt đá, có kỹ năng quản trị và tập trung sự
cần thiết để thống trị Đảng Cộng sản.
Cùng với người đàn ông là cánh tay phải của mình, ông Lê Đức Thọ bất
khuất, người mà sau này đấu khẩu với Henry A. Kissinger trong các cuộc
đàm phán hòa bình Paris, ông Duẩn xây dựng một đế chế quân phiệt vững
chắc, vẫn còn chi phối Hà Nội đến ngày nay. Các chính sách hiếu chiến
của họ đã dẫn Bắc Việt vào cuộc chiến chống lại Sài Gòn và sau đó là
Washington, và bảo đảm rằng một nền hòa bình được thỏa thuận sẽ không
bao giờ thay thế thắng lợi hoàn toàn.
Ông Duẩn thống trị đảng với một bàn tay sắt và xem ông Hồ và Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, người nổi tiếng với việc đánh bại Pháp ở Điện Biên
Phủ, là mối đe dọa lớn nhất đối với quyền hành của ông ta. Ông ta loại
bỏ ông Hồ, Tướng Giáp và những người ủng hộ họ khi quyết định gần như
hầu hết các quyết định quan trọng.
Năm 1963-1964, ông Duẩn buộc ông Hồ im lặng khi nhà lãnh đạo có tuổi
này chống đối quyết định gây tranh cãi trong việc leo thang chiến tranh
và tìm kiếm chiến thắng hoàn toàn trước khi lực lượng Mỹ có thể can
thiệp. Và năm 1967-1968, có một cuộc thanh trừng với quy mô lớn ở Hà
Nội, khi ông Hồ, Tướng Giáp và những người đồng minh của họ phản đối kế
hoạch của ông Duẩn về tổng tấn công Tết Mậu Thân. Mặc dù cuộc chiến ở
miền Nam lúc đầu đã tập hợp được những người miền Bắc để hỗ trợ đảng,
nhưng nó nhanh chóng trở thành một vũng lầy. Ông Duẩn và ông Thọ phản
ứng bằng cách tạo ra một chính phủ đồn trú, đã gán cho bất kỳ người nào
chống lại chính sách chiến tranh của họ cái tội phản quốc. Bằng cách
tăng quyền hạn của lực lượng an ninh nội bộ và an ninh tư tưởng, và Hà
Nội chinh phục cuộc khởi nghĩa ở miền Nam, họ đã có thể tiến hành chiến
tranh tổng lực theo quyết định của họ cho đến năm 1975.
Sự kình địch giữa Trung Quốc và Liên Xô cũng đóng một vai trò lớn
trong việc xác định tiến trình chiến tranh. Thuyết cấp tiến đang trỗi
dậy ở Trung Quốc và việc Liên Xô thiếu cam kết đối với các cuộc cách
mạng ở thế giới thứ ba, đã cho phép ông Duẩn ngã theo Trung Quốc và tiến
tới cuộc chiến tranh với quy mô toàn diện ở miền Nam vào đầu thập niên
1960. Khi sự tham gia của Mỹ gia tăng vào năm 1965, viện trợ của Liên Xô
đổ vào Bắc Việt. Đến năm 1968, tranh giành sự ảnh hưởng Hà Nội giữa Bắc
Kinh và Moscow đã trở nên căng thẳng.
Lê Duẩn đã tìm cách khẳng định quyền tự chủ cho Việt Nam bằng cách
tung ra cả hai Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 và Chiến dịch Xuân – Hè 1972
(VNCH gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa – ND), chiến dịch mà cả Bắc Kinh lẫn Moscow
không chấp thuận. Năm 1972, các chuyến thăm Trung Quốc và Liên Xô của
Richard M. Nixon đã đánh dấu đỉnh điểm sự ngăn cản của Trung – Xô về nỗ
lực trong cuộc chiến Bắc Việt. Cả hai đồng minh [Trung Quốc và Liên Xô]
gây áp lực lên Hà Nội để kết thúc cuộc chiến, dựa trên các điều khoản
của Nixon khi họ tranh nhau về những ơn huệ của Washington. Thay vì chờ
đợi “sự phản bội của một nước lớn”, ông Duẩn và các đồng chí của ông đã
phát động Chiến dịch Xuân – Hè, với mục đích lật đổ chính quyền Sài Gòn
và tấn công một đòn chí mạng vào việc giảm bớt căng thẳng của Mỹ với
Liên Xô và Trung Quốc.
Cuối cùng, chính Mỹ đã tự đánh bại mình trong cuộc chiến Việt Nam là
một huyền thoại. Thật vậy, Việt Nam chẳng phải là những con rối hay là
những đối thủ thụ động trong cuộc chiến tranh của họ. Họ định hình các
hành động của Mỹ ở Việt Nam cũng như trật tự cuộc chiến tranh lạnh toàn
cầu. Chính ông Duẩn đã đặt cược cho chiến thắng trong năm 1964, đã thúc
đẩy Mỹ can thiệp vào một cách dứt khoát. Và các đồng minh của Mỹ ở Sài
Gòn đã trì hoãn việc rút quân của Hoa Kỳ.
Họ kiên trì theo đuổi lợi ích riêng, ngay cả khi những điều đó tỏ ra
bất lợi cho liên minh Washington – Saigon. Làm chậm việc rút quân của Mỹ
trong năm 1969 và phá tan các cuộc đàm phán hòa bình giữa Kissinger và
ông Thọ năm 1972-1973, các lãnh đạo miền Nam Việt Nam đã làm cho việc Mỹ
rút khỏi Đông Nam Á phức tạp rất nhiều. Mặc dù Washington có những lý
do riêng về địa chiến lược và nội bộ để can thiệp và ở lại Việt Nam,
những các nhà lãnh đạo Hà Nội và Sài Gòn đã chi phối tính chất và tốc độ
can thiệp của Mỹ.
Chiến đấu trong cuộc chiến cuối cùng thì luôn là một mối nguy hiểm.
Nó càng trở nên khó hiểu hơn khi sự giống nhau về lịch sử thúc đẩy chính
sách hiện hành, dựa trên sự hiểu biết không đầy đủ và sai lầm về các
thất bại trong quá khứ của Mỹ. Khi bằng chứng lịch sử mới hiệu chỉnh lại
sự hiểu biết của chúng ta về cuộc chiến Việt Nam và làm cho bất kỳ sự
giống nhau trực tiếp nào không đứng vững, ít nhất chúng ta có thể rút ra
một bài học: chúng ta nên khắt khe trong phân tích về nỗ lực chiến
tranh của kẻ thù.
Các lãnh đạo Taliban có các quan điểm xung đột trong các cuộc đàm
phán hòa bình, triển vọng về hoà giải với chính quyền Afghanistan, và sự
điều khiển phong trào. Với Mullah Muhammad Omar hành động như là lãnh
đạo tinh thần của Taliban, cơ hội đã xuất hiện cho một phe mạnh mẽ với
một người chỉ huy quyết định – như trường hợp của ông Duẩn – thống nhất
hoặc thống trị các nhóm ở Afghanistan đã bị chia rẽ. Lãnh đạo mới này
chắc chắn sẽ là người tham chiến, đặc biệt nếu Mỹ tấn công bằng một cuộc
mặc cả không mong muốn với các quan chức Taliban ở Pakistan.
Và ngay cả khi thương vong gia tăng để rồi cuối cùng dẫn đến một số
các chiến binh ủng hộ hòa bình, chính sách của Lầu Năm Góc về việc xếp
tất cả những người đàn ông, những người tình cờ ở trong khu vực lân cận
của các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái như các chiến binh có
thể làm suy yếu khuynh hướng [ủng hộ hòa bình] đó, cũng giống như cách
mà Mỹ ném bom hạng nặng vào “vùng oanh kích tự do” và “vùng tấn công
định vị” ở Việt Nam, đã làm cho nhiều người dân cay đắng gia nhập hàng
ngũ Cộng sản.
Điều rất quan trọng là Hoa Kỳ hiểu vai trò của các nhân vật trong khu
vực – như các cơ quan an ninh của Pakistan – đóng vai trò quan trọng
trong nội bộ chính trị Taliban. Trong khi sự kình địch giữa Trung Quốc
và Liên Xô cho phép Hà Nội duy trì quyền tự chủ của mình trong lúc moi
được viện trợ tối đa từ cả hai nước, cuộc nổi dậy ở Afghanistan không
được hưởng lợi thế như vậy, đặc biệt kể từ khi sự ảnh hưởng của nước
láng giềng Iran bị hạn chế. Do đó, Mỹ có được lợi trong nhiều hơn ở
Afghanistan, hơn là họ đã có được ở Việt Nam.
Cuối cùng, Hoa Kỳ hình dung được sự rút quân hoàn toàn vào năm 2014,
nhưng như lịch sử cho thấy, các đồng minh của chúng ta có thể không luôn
luôn thực hiện theo mong muốn của chúng ta. Có thể tùy thuộc vào chính
phủ Hamid Karzai hay người kế nhiệm để thiết lập tốc độ rút quân của Mỹ
khỏi Afghanistan. Như chúng ta đã thấy ở Việt Nam, chúng ta không thể
giả định rằng chỉ một mình chúng ta có thể quyết định các hành động của
chúng ta.
Liên-Hằng Nguyễn là giáo sư lịch sử ở trường Đại học Kentucky và là tác giả của cuốn sách: Hanoi’s War: An International History of the War for Peace in Vietnam (cuộc chiến Hà Nội: lịch sử quốc tế về chiến tranh vì hòa bình ở Việt Nam).
Nguồn: The New York Times
Bản tiếng Việt © Việt Sử ký 2012