Đào Dục Tú
Gợi cho tôi ý tưởng viết bài phiếm luận này là lới của một ông Tổng
thống Mỹ nổi danh hào hoa và đoản mệnh ở Nhà Trắng, Giôn Ken-nơ-đi:
”Không có tranh luận, không có phê bình, không một tổ chức hay quốc gia
nào có thể thành công và không một nền cộng hòa nào có thể sống sót”.
Hay nói cách khác, mở rộng và khái quát, tranh luận, phê bình là hoạt
động trí thức bình thường và cần thiết của đời sống tinh thần con người
trong đời sống chính trị xã hội, tương tự như dưỡng chất; như dưỡng khí
tự nhiên tối cần cho nhu cầu thiết yếu nhất để tồn tại của một sinh thể.
Thế nhưng ở Việt Nam? Hoạt động rút gọn là tự do ngôn luận tưởng như
bình thường đó, lại thực tế hóa ra trở thành rất không bình thường trong
nhiều thời điểm, trong nhiều bối cảnh chính trị xã hội khác nhau
Ví như... ngày xưa; người ta còn nhớ thời Nhân Văn Giai Phẩm, một
nhóm trí thức văn nghệ sĩ - những người đã “lập ngôn” ”dĩ ngôn chí”
thành danh, có người nổi tiếng từ trước Cách Mạng Mùa Thu vừa chân ướt
chân ráo từ chiến khu Việt Bắc về như Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu,
Trần Đức Thảo... bên Đại Học; như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Nguyễn
Bính....bên Văn chương, Văn Cao, Tử Phác... bên Nhạc, v.v…, xem như bị
“treo bút sáng tạo” không có “án văn tự” nhiều thập kỷ.
Chỉ bởi một lý do đơn giản: họ dám, bằng sáng tác thơ văn hoặc phát
biểu ý kiến, nói khác lãnh đạo, cao hơn, dám đòi quyền tự do sáng tác,
trả văn nghệ về cho văn nghệ sĩ. Một số trí thức tự cho mình quyền hoạt
động phản biện, nêu rõ chính kiến ở những diễn đàn “ôn hòa đoàn kết” như
Mặt Trận Tổ Quốc chẳng hạn.
Ví như.... ngày nay; nhiều diễn đàn xã hội trên mạng thông tin toàn
cầu của cá nhân, của một nhóm thân hữu xuất xứ nghề báo hoặc liên đới
đến truyền thông xã hội dám “nói khác” tuyên truyền “lề phải”, tuyên
truyền chính thống về hiện trạng kinh tế xã hội, về âm mưu, thủ đoạn,
hành xử bất minh của nhà cầm quyền Trung Quốc đối với Việt Nam, chẳng
hạn.
Phản động, nghĩa gốc của từ Hán Việt này, theo Hán Việt từ điển của
học giả Đào Duy Anh, chỉ là hành động hoặc vận động trái lại một diễn
trình nào đó.
Còn từ gốc Hán Việt “biện” của biện luận, giải nghĩa ngắn gọn là
tranh luận, xét rõ hiện trạng và vấn đề để phân biệt đúng sai, phải trái
theo một quan điểm, một chuẩn đích nào đó.
Hiểu từ “gốc chữ” hiểu đi như thế thì phản biện chỉ có nghĩa chung
khái quát là đặt ngược vấn đề để xem xét lý thuyết và thực tiễn đã và
đang diễn ra của đời sống chính trị xã hội. Quả là đã có một thời chưa
xa trong không khí sôi sục đấu tranh cách mạng, đấu tranh giai cấp, hai
chữ “phản động” chỉ còn được hiểu nghĩa là chống lại cách mạng, chống
lại tổ chức chính trị, đi ngược lại lợi ích của nhà nước và nhân dân.
Tội phản động thuộc diện “tầy đình”, người mắc tội dù có án hay không
có án giấy trắng mực đen thì cũng buộc phải bị trừng trị, phải bị cô
lập hoặc chí ít cũng bị vô hiệu hóa. Thời bấy giờ hai chữ “phản động”
được “mặc định” một nội hàm chính trị tư tưởng cự ghê gớm. Thời bấy giờ
đã ai đặt vấn đề phản biện... ”đại trà” như ngày nay mặc dù trong thực
tế nhiều nhân vật trí thức văn nghệ sĩ bằng thực tế sáng tác và “tranh
luận văn nghệ” đó đây đã có những hoạt động phản biện.
Tiếc thay họ bao giờ cũng thuộc “thiểu số”. Ví như ở Hội nghị tranh
luận văn nghệ tại Việt Băc năm 1947 chẳng hạn. Ví như sáng tác và “lập
thuyết” của nhóm Nhân Văn, báo Trăm Hoa, tờ Văn vân vân và vân vân,
chẳng hạn. Và mãi tới thời tiền đổi mới, chỉ mới nêu chính kiến cần chấp
nhận đa nguyên tư tưởng, một vị thuộc hàng “cộm cán” của triều chính
còn bị thất sủng tức khắc...
Không phải ngẫu nhiên thời gian gần đây “bùng phát” phản biện trên
báo lề trái, trên các trang mạng xã hội. Nếu hiểu theo nghĩa “chuẩn”
nghĩa “đúng, chính xác” của hai từ gốc Hán Việt “phản động” và ” phản
biện” thì trước hiện trạng ‘hệ thống” nhóm lợi ích thao túng kinh tế,
gây ra nạn tham nhũng đến mức trong chính giới, trên diễn đàn quốc hội,
có người gọi là “nạn nội xâm” nguy hiểm, là ”bầy sâu tham nhũng ăn hết
phần của dân, không từ thứ gì”; trước hiện trạng thế lực bành trướng bá
quyền nước lớn Bắc Kinh đi những bước nguy hiểm đe dọa an ninh và toàn
vẹn lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam thì hoạt động phản biện cần được hiểu là
quyền chính đáng của người dân nói chung, của giới trí thức yêu nước
nói riêng; không thể đánh đồng với... phản động như... ngày xưa!
Và do đặc thù của hoạt động trí thức, do phân công lao động trí óc
của thời kỳ kinh tế toàn cầu hậu công nghiệp, hậu hiện đại và thế giới
phẳng, vai trò phản biện trên tất cả các mặt kinh tế xã hội giáo dục đào
tạo lại thuộc người trí thức là chủ yếu, là chủ đạo. Hiển nhiên hoạt
động phản biện của họ trong khuôn khổ hiến pháp, luật pháp, cần được sự
bảo trợ của luật pháp, cần được sự khuyến khích của chính quyền và toàn
xã hội.
Trong bối cảnh chỉ riêng nạn tham nhũng thôi cũng đã được diễn đàn
chính thống xem như “giặc nội xâm”, chỉ riêng một bộ phận không nhỏ cán
bộ đảng viên có chức có quyền tha hóa biến chất cả về tư tưởng, đạo đức,
lối sống có cơ đe dọ sự tồn vong của đảng lãnh đạo, thì hoạt động phản
biện về thực trạng đó là cần thiết, đúng hơn khẩn thiết. Không phát huy
được tinh thần dân chủ nhằm huy động tổng lực trí tuệ của toàn xã hội,
trước hết là bộ phận tinh hoa của dân tộc là đội ngũ trí thức yêu nước,
làm sao có thể cải thiện được tình hình kinh tế xã hội quá nhiều điều
bất cập?
Gác lại một bên ý thức hệ, với tình thần khoa học và thực chứng,
người viết xem lời của một nhân vật chính trị Mỹ như một lời phản biện
cần thiết để tham khảo và suy xét: ”không có tranh luận, không có
phản biện, không một tổ chức hay quốc gia nào có thể thành công và không
một nền cộng hòa nào có thể sống sót”. Có nên xem đó là lời phản
biện cảnh báo cần thiết, để trước hết nhận ra một sự thật là phản biện
hiểu theo nghĩa tích cực hữu ích cho dân cho nước. Phản biện tuyệt nhiên
không phải, không thể “mặc định” là phản động theo nghĩa xấu, tiêu cực,
cần triệt bỏ như... ngày xưa!