Cựu Tổng Thống Bill Clinton trên đường phố Hà Nội năm 2006. (Hình: Getty Images) |
Vì sao vậy? Vì sao nguyên thủ (và ở những chuyến sau là cựu nguyên
thủ) của một quốc gia mà mới vài chục năm trước bị chính giới và hàng
chục triệu người dân Việt Nam coi là kẻ thù, bây giờ lại được tất cả
những người gặp ông trên đường phố đón mừng với sự mong đợi và tình cảm
chân thành như vậy?
Phải nói là khoảng thời gian trên dưới 30 năm (lần đầu là sau 27 năm,
và lần gần đây nhất là sau 41 năm kể từ khi Mỹ rút khỏi Việt Nam.) đã
phát huy tác dụng của nó. Nó đã xóa đi khá nhiều những ký ức và ấn tượng
về cuộc chiến, làm phai nhạt khá nhiều nỗi hận thù khi nhìn thấy người
Mỹ rải bom đạn, phá hủy nhà cửa và các công trình dân sinh, gieo rắc
chết chóc cho dân thường. Hơn thế, khoảng thời gian đó đã làm cho những
người có suy nghĩ độc lập đặt ra câu hỏi, “Vì sao Mỹ đến Việt Nam? Liệu
có phải thuần túy vì mục đích cướp bóc tài nguyên hoặc hủy diệt một dân
tộc?” Và người ta ít nhiều đã nhận ra rằng nguyên nhân sâu xa nằm ở chỗ
khác. Thoạt nhìn, người Mỹ đúng là kẻ xâm lăng, vì nếu họ không đến thì
làm sao có cuộc chiến khốc liệt đó trên đất Việt Nam! Nhưng nhìn lại
lịch sử, bắt đầu từ tuyên ngôn của đảng cộng sản của Marx và Engels, thì
ta sẽ nhìn nhận vấn đề khác đi đáng kể.
Khoảng thời gian đó cũng đã làm cho dân ta thấy thêm được nhiều điều
khác. Họ đã nhận ra rằng những điều được nghe trước đây qua hệ thống
tuyên truyền (nhất là ở miền Bắc) về phía bên kia về cơ bản là “nói lấy
được,” kiểu như “Ngu nhất trên đời là tổng thống Mỹ,” hay chuyện ông Ngô
Ðình Diệm thông dâm với em dâu Trần Lệ Xuân (trong khi ngay cả đối thủ
chính trị của ông này trong chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng phải thừa
nhận ông không bao giờ gặp riêng một phụ nữ nào), vân vân và vân vân,…
Qua hệ thống truyền thông, đặc biệt là TV, qua mạng Internet, qua những
chuyến đi “Tây,” trong đó có Mỹ, qua câu chuyện mà những người đi “Tây”
về kể lại, đa số đã nhận ra rằng xã hội Mỹ và các nước phát triển khác
thực sự phấn đấu vì hạnh phúc của con người, và họ đã đạt được những
thành tựu mà thậm chí người Việt ta còn không tưởng tượng ra. Không chỉ
là sự giàu sang và khoa học – công nghệ hiện đại. Ở nơi đó người thất
nghiệp cũng có thể có trên dưới ngàn đô mỗi tháng; thậm chí người tị nạn
cũng được nhà nước sở tại quan tâm. Ở nơi đó nhưng công dân không phải
làm gì trừ việc lao động để bảo đảm cuộc sống cho mình và đóng thuế cho
nhà nước. Ở nơi đó, mọi người đều được nói lên những điều mình nghĩ, kể
cả những điều mang tính chất phê phán (có khi gay gắt) hệ thống nhà nước
và cá nhân các quan chức cao cấp.
Người ta đã nhận ra rằng tất cả những cái “ưu việt” của xã hội kiểu như của ta, của Tàu,… chỉ là sản phẩm của đường lối tuyên truyền. Người ta nhận ra rằng những sự kỳ vọng ấp ủ bao năm về cuộc sống hạnh phúc chỉ là hão huyền. Hãy nhìn kia, những đoàn dân oan, mất đất, mất nhà! Nhìn kia, những người muốn có tự do bị tước đi cả những thứ tự do sơ đẳng nhất!
Người ta đã nhận ra rằng tất cả những cái “ưu việt” của xã hội kiểu như của ta, của Tàu,… chỉ là sản phẩm của đường lối tuyên truyền. Người ta nhận ra rằng những sự kỳ vọng ấp ủ bao năm về cuộc sống hạnh phúc chỉ là hão huyền. Hãy nhìn kia, những đoàn dân oan, mất đất, mất nhà! Nhìn kia, những người muốn có tự do bị tước đi cả những thứ tự do sơ đẳng nhất!
Trong bối cảnh đó, một chính khách có tư thế đến từ một quốc gia văn
minh thực sự trở thành biểu tượng của niềm tin và hy vọng. Nếu ông ấy
vẫn là đương kim nguyên thủ thì cơ hội cho người dân thường tiếp xúc
trực tiếp với ông ấy gần như không có. Còn nếu ông ấy đã “về vườn” thì
ông ấy có thể thoải mái đi ra đường phố để người dân được nhìn thấy ông
bằng xương bằng thịt, và được chạm vào tay ông, vào áo ông. Chưa biết
ông mang đến cho đất nước này được những gì, và những thứ đó có đến tay
được một người dân cụ thể nào đó trong đám đông kia hay không, nhưng
người dân đó vẫn vui vì được ở gần ông, một con người mà người ta cảm
thấy đáng tin cậy hơn nhiều so với những nhân vật quyền thế đang trực
tiếp chi phối đời sống xã hội ta và những người trước đó đã bao năm hứa
hẹn hão với dân chúng về thiên đường trên mặt đất. Họ đã bao năm chờ
đợi, đã hy vọng, và thất vọng…
Một lý do nữa để Bill Clinton được người dân Việt Nam hồ hởi đón mừng như vậy là chính con người ông.
Một người đẹp gần như hoàn hảo cả về dáng mạo, tư thế và nhân cách. Một thân hình cao lớn và cân đối.
Một gương mặt khả ái và tươi tắn. Một tác phong đĩnh đạc nhưng vẫn
khiêm nhường khi lắng nghe từ đối tác cho đến đứa trẻ. Những bài nói cụ
thể và sinh động, không sa vào hô khẩu hiệu chính trị. Về hành động, ông
còn là vị tổng thống Mỹ đã làm mọi việc để tạo cơ hội và quyết định bỏ
cấm vận, cũng như bình thường hóa quan hệ với Việt Nam…Việc đó đã góp
phần quan trọng để nước ta thoát ra khỏi tình trạng bế tắc kéo dài 20
năm trước đó. Và những hoạt động của ông ngay cả khi đã rời chính trường
vẫn đang đem lại hạnh phúc cho hàng trăm ngàn người bất hạnh ở nhiều
nơi trên thế giới.
Chắc chắn những lời nói tốt đẹp về một người như Bill Clinton làm một số nhân vật có vai vế thấy khó chịu.
(Như cái người đã nói những lời vỗ mặt ông trong buổi tiếp ông nhân
chuyến thăm chính thức đầu tiên của ông tới Việt Nam.) Nhưng đáng buồn
là trong số họ chẳng ai được giống ông được một phần.
Nguyễn Trần Sâm
(Nguồn: Quê Choa)
(Nguồn: Quê Choa)