Xích Tử
Ngày 10/7/2014, Thượng viện Mỹ thông qua với số phiếu thuận tuyệt đối
Nghị quyết S.RES 412, thể hiện tiếng nói, quan điểm, thái độ chung của
một trong những cơ quan dân cử - lập pháp của Mỹ về vấn đề Biển Đông và
những yêu cầu đối với Trung Quốc cũng như các quốc gia liên quan khác
trong khu vực.
Ngày hôm sau, 11/7/2014, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã
bày tỏ thái độ chính thức của Việt Nam là hoan nghênh việc ra Nghị quyết
và nội dung của Nghị quyết nói trên, đồng thời cũng bày tỏ “Việt Nam
mong muốn các quốc gia trong và ngoài khu vực, trong đó có Hoa Kỳ tiếp
tục có đóng góp mạnh mẽ, thiết thực, hiệu quả và có tính xây dựng cho
hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không ở khu
vực”.
Thật là khó hiểu những con người và cái tổ chức ra nghị quyết đó.
Cũng họ và cũng tổ chức ấy, có lúc đề xuất, bảo trợ và có thể được thông
qua những văn kiện về nhân quyền, tôn giáo, về việc Việt Nam đàn áp
những người bất đồng chính kiến v.v... để phía Việt Nam phản đối, bác
bỏ, thậm chí phản ứng gay gắt, xem như sự can thiệp thô bạo, âm mưu diễn
biến hòa bình, thù địch; nếu nhẹ cũng là nhận xét như một thái độ thiếu
thiện chí, không khách quan, sai trái, phiến diện, không phù hợp và làm
ảnh hưởng xấu quan hệ giữa hai nước.
Rõ ràng, người Mỹ, cá nhân cũng như các tập thể chính trị, có thể bị
hội chứng tâm thần, tiền hậu bất nhất trong tư duy, hành vi chính trị
của mình. Các biểu hiện của hội chứng đó, làm cho những đối tác ngoại
giao, như kiểu Việt Nam bị xoay chong chóng, khủng hoảng cách xác định
bạn / thù, hoặc như cách nói hiện đại bây giờ là đối tác/ đối thủ/ đối
phương.
Chuyện về phân định bạn thù là một trong những vấn đề quan trọng nhất
của cách mạng vô sản, cộng sản, từ lúc nó manh nha, cho đến khi phát
triển thành phong trào quốc tế với sự xác lập hệ thống thực thể quyền
lực cấp quốc gia/ nhà nước và liên quốc gia và cho đến nay, buổi cuối
mùa của phong trào.
Trong cấu trúc của cuộc cách mạng đó, từ giai đoạn “cổ điển”, chỉ
thuần túy như là vì mục tiêu đấu tranh chống kẻ thù giai cấp, trước hết
là bọn tư bản, để giải phóng giai cấp, thực hiện chủ nghĩa cộng sản/ thế
giới đại đồng, giai cấp công nhân là lực lượng tiến bộ nhất, chủ lực
của cách mạng; đảng cộng sản hoặc tương tự, là đội tiền phong của “giai
cấp” đó; số còn lại nhất loạt được xếp vào cái chuồng“quần chúng” của
đảng, của cách mạng. Từ ngữ “quần chúng” trong tiếng Hoa, tiếng Việt, có
thể hiểu là “bầy bọn nó”, nghĩa là số đông ở phía dưới, thấp hơn. Lực
lượng này, tùy từng hoàn cảnh, có thể có lợi, có thể có hại cho cách
mạng; trong đó có những bọn dao động, nghiêng ngả, không triệt để cách
mạng v.v.., và có thể trong đó, có kẻ thù, và kẻ thù tiềm năng. Đảng cần
phải nhận diện, phát hiện kịp thời tính chất kẻ thù này trong diễn biến
của cách mạng, để tranh thủ số còn lại và tiêu diệt bọn kẻ thù đó.
Không có quá trình lịch sử nào, cuộc cách mạng nào có nhiều kẻ thù
như cách mạng vô sản/ cộng sản. Trong những công trình luận chiến triết
học, kinh tế, chính trị, các nhà kinh điển của cuộc cách mạng này trong
thế kỷ XIX và về sau, những người thực thi cuộc cách mạng đó, kể cả khi
đã giành được quyền lực, chỉ có tự họ gọi nhau một cách tin tưởng là
đồng chí; số còn lại như đã nói trên là quần chúng; ngoài ra tất cả kẻ
thù giai cấp đều được gọi bằng những đại từ miệt thị là bè (lũ), bọn,
thằng, chúng, y, hắn. Chỉ có cách mạng vô sản mới có văn hóa xưng hô
luận chiến, bày tỏ thái độ miệt thị chính trị như vậy. Đã là kẻ thù thì
dứt khoát phải là “thằng địa chủ”, là “thằng địch” dù tuổi tác như thế
nào, quan hệ với người gọi – từ trẻ em cho tới bạn đồng niên – ra sao,
kể cả con dâu rễ trong nhà. “Thằng Mỹ mà đến nước ta” thì dứt khoát là
thằng Mỹ, dù như ông J. Kerry, bây giờ bắt tay với Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam, có chiều cao gấp đôi người tương cấp.
Thế rồi, cách mạng vô sản / cộng sản thành công thể hiện bằng việc
giành chính quyền và xác lập thể chế quốc gia. Đến đây, ngoài tính chất
giai cấp, cuộc cách mạng đó mở rộng đến những vấn đề quốc gia, nhà nước,
dân tộc, đối ngoại, hợp tác quốc tế song phương và đa phương, phân chia
quyền lực thế giới, bành trướng, đế quốc trong quan hệ giữa các nước
lớn với các nước nhỏ... Lại thêm những kẻ thù mới; bên cạnh bọn phản
động, phản cách mạng với giai cấp tư sản, địa chủ, thậm chí cả trí phú
hào như ở Trung Quốc, Việt Nam, danh sách kẻ thù được bổ sung bọn thực
dân, bọn đế quốc, bọn bành trướng bá quyền, bọn sen đầm quốc tế, bọn
khủng bố, bọn cực đoan, bọn ly khai, bọn phục thù, bọn phát xít mới, bọn
vô chính phủ... Quần chúng của cách mạng vô sản trong phạm vi quốc gia
cũng được mở rộng đến nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hữu nghị hòa bình,
nhân dân lao động...ở các quốc gia không cộng sản, để tạo thành ba dòng
thác cách mạng vừa cuồn cuộn vừa rả rích chảy suốt thế kỷ XX.
Việc xác định kẻ thù đó tốn công sức, trí tuệ, giấy tờ rất nhiều
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của đảng cộng sản và tương tự.
Và một khi nó đã trở thành những xác định kết luận trong khuôn khổ những
cương lĩnh, chủ trương, đường lối thì tai họa nó giáng xuống đời sống
xã hội không biết nói thế nào cho xuể. Đối tượng, phạm vi ngoại diên của
kẻ thù thay đổi liên tục. Chẳng hạn như ở Việt Nam, vì không có giai
cấp tư sản đầy đủ theo khái niệm macxit, nên phải tìm trong trí phú địa
hào cho đỡ ngượng cách mạng. Tính chất của trí phú địa hào đó cũng được
định nghĩa tùy thời để vừa vẫn có kẻ thù, vừa tranh thủ lôi kéo. Trung
Quốc cũng vậy; sau khi nghiên cứu nông dân ở Hồ Nam (1925) và qua sự
kiện “Công xã Quảng Châu” (1927), Mao và đảng cộng sản Trung Quốc vừa
lấy nông dân làm lực lượng cách mạng, vừa biến họ thành kẻ thù của cách
mạng, bằng cách tách rạch ròi địa chủ và bần cố nông. Địa chủ thì cũng
hết sức linh hoạt trong cách xác định, như ở Việt Nam, lúc/ chỗ thì sở
hữu 10 mẫu, rồi 5 mẫu, rồi 3 mẫu, rồi mẫu Bắc bộ và mẫu Trung bộ, rồi có
ủng hộ cách mạng hay không, để có đủ tỉ lệ 5%, 10%, bù cho kết quả 3%
quá thấp so với yêu cầu của cách mạng và của cố vấn Trung Quốc.
Trong các kỳ họp, đại hội đảng lớn nhỏ, nghị sự về việc xác định kẻ
thù cũng chiếm một chương trình quan trọng, có ý nghĩa quyết định cho
diễn biến cách mạng sau đó. Theo cách ấy, cuộc/kỳ họp hoặc đại hội phải
nhận diện được kẻ thù trực tiếp/ (gián tiếp), chủ yếu, trước mắt, lâu
dài, kẻ thù chiến lược... Danh sách này phải được truyền đạt trong toàn
đảng và đến toàn xã hội để học thuộc lòng; mở miệng ra là phải nói và
nói cho đúng cho đủ, như kinh nhật tụng.
Như vậy, trong đời sống tinh thần của dân tộc hình thành một dòng
chất độc văn hóa ngấm dần vào từng thế hệ là văn hóa về kẻ thù, về sự
“nhạy cảm”, kiên quyết trong phân biệt phạm trù bạn và thù, dù ranh giới
của hai phạm trù đó tù mù, tùy tiện, ấu trĩ theo cái ấu trĩ chung không
thể vượt qua, không thể từ bỏ và đôi khi là cần thiết phải có của cách
mạng vô sản/cộng sản. Yêu cầu về sự xác định lập trường đó trở thành
tiêu chuẩn trung thành cách mạng của đảng viên, thành biểu hiện tính
kiên định cách mạng và phản xạ đúng trong nhận thức, tư duy cách mạng
của họ. Đến nỗi, trong một kỳ họp quốc hội Việt Nam ở thập kỷ thứ hai
của thế kỷ XXI, một đại biểu ở Ninh Thuận có cái tên rất trí thức, vẫn
lấy chủ nghĩa quốc tế vô sản làm đòn bẫy để nhận thức bạn thù, khi bày
tỏ băn khoăn về giàn khoan HD-981 của đồng chí Trung Quốc, rằng “hai
nước xã hội chủ nghĩa lình xình với nhau thì có lợi cho ai”, rằng “phải
bảo vệ chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Cứ đà ấy, vị đại biểu đó có thể đặt
câu hỏi rằng vào năm 1979, hai nước xã hội chủ nghĩa choảng nhau chí tử
thì có lợi cho ai và tự trả lời có lợi cho dịch vụ mai táng (lúc đó của
ngành vật tư chất đốt) và nhang đèn hàng mã, cũng được. Chắc vị đại biểu
đó, như đã có người nghi ngờ rằng ông không biết chữ, và đang mộng du
trong thế kỷ XIX, cũng không biết rằng trong những năm 60- 70 của thế kỷ
XX, Trung Quốc gọi Liên Xô là Đế quốc đỏ; còn Liên Xô đáp lại bằng cách
gọi Trung Quốc là bành trướng bá quyền nước lớn. Kẻ thù hóa đồng chí
rồi đồng chí hóa kẻ thù, như một trò phù thủy của cách mạng.
Và trong cái đà ấy, “Đường vinh quang xây xác quân thù”, để đến bây
giờ, mới biết rằng khái niệm “kẻ thù” của cách mạng với vô số loại kẻ
thù suốt lịch sử và yêu cầu về sự cần thiết phải hình thành tư duy về kẻ
thù như là một nguyên tắc của đạo đức, luân lý cách mạng của chiến sĩ
cách mạng vô sản chỉ là một cái gì đó vừa thiếu trí tuệ, phi nhân bản và
có tác dụng phá hoại kinh khủng lịch sử nhân loại. Ngay tại thời điểm
xác định và qua biến động lịch sử, rất nhiều trong số kẻ thù của cách
mạng đó là ảo, là giả, là nhầm lẫn, là giả định, là những chiếc cối xay
gió của Don Quichotte, để rồi phải cải chính, phải minh oan, phải phục
hồi, nhưng phần xương máu, mất mát, tổn thất tính mạng và tinh thần của
cả dân tộc thì vẫn còn đó và quá lớn. Không có thời kỳ nào khốn nạn như
cái thời mà những cải biến lịch sử, dưới chiêu bài giành độc lập, chủ
quyền, giải phóng nhân dân, dân tộc và giai cấp, đã biến nhân dân mình
thành kẻ thù và kẻ thù tiềm năng, thậm chí là cả “đồng chí” của mình mà
một bài thơ của tác giả bài Quốc ca có đoạn lời được trích ở trên nói về
việc xử bắn một đảng viên trong cải cách ruộng đất. Ở quê tôi, hòa trộn
cả tính chất giai cấp và dân tộc, có những vụ thanh toán kẻ thù chằng
hiểu thế nào được : một đứa cháu 4 giờ chiều mang súng ra ruộng nơi ông
bác họ là xã trưởng đang cày để xử trước sự ngơ ngác, khiếp sợ của những
bạn cày cùng làng khác; một cán bộ nằm vùng ở cùng xóm nửa đêm đến gọi
một ông ở cạnh vườn bị nghi là chỉ điểm và bắn ngay tại sân nhà trong
tiếng kêu khóc thảm thiết của người vợ và những đứa con nheo nhóc bị
đánh thức dậy nửa đêm, để kèm lại mảnh giấy “Cách mạng xử” mà đến bây
giờ, vì nó, những đứa con ấy không ngóc đầu lên được, không sống nổi.
Cũng trong sự hòa trộn đó, không biết đâu là tính chất giai cấp, đâu
là tính chất dân tộc của cuộc cách mạng, nhất là cuộc chiến tranh 21
năm, chính xác là chiến tranh 1959 – 1975 ở nước ta. Tiêu diệt chế độ
VNCH, giải phóng miền nam là chiến tranh ý thức hệ hay chỉ giành độc lập
và thực hiện thống nhất đất nước bằng bạo lực cộng sản. Nếu Việt Minh
không để lại miền Nam hàng chục ngàn cán bộ, liệu có chiến dịch tố cộng,
diệt cộng của chính quyền Ngô Đình Diệm không, để từ đó Đảng Lao động
Việt Nam ra nghị quyết 15, rồi sau đó vi phạm Hiệp Định Genève, leo
thang dần đến chỗ đưa hẳn quân chủ lực miền Bắc, cùng xe tăng, pháo, tên
lửa cùng nhiều loại vũ khí xã hội chủ nghĩa khác, song song với việc Mỹ
can thiệp vào Việt Nam với sự có mặt của hơn 60 vạn quân đội chủ lực.
Sự có mặt đó của Mỹ là xâm lược, đế quốc hay vì mục đích ý thức hệ ?
Tương tự, khi Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam nói đánh Mỹ là đánh cho
Liên Xô, Trung Quốc thì cuộc chiến đó là chống xâm lược Mỹ hay bảo vệ
hệ thống xã hội chủ nghĩa ?
Những câu hỏi đó quay quắt suốt lịch sử hiện đại, từ phía nhân dân.
Những người lãnh đạo, những người chiến thắng thì luôn có câu trả lời và
có cách trả lời có lợi cho mình và trong sự trả lời đó luôn có sự xác
tín về những kẻ thù như là có thật. Điều đó tạo ra một thời kỳ khốn cùng
của chính trị, của lịch sử và của sử học, cái mà vốn trong những nước
tiến bộ, khi họ chỉ có quyền lợi quốc gia, dân tộc duy nhất và lịch sử
của họ cũng chỉ là lịch sử phát triển, bảo vệ quyền lợi đó, chống lại
những lực lượng gây tổn hại, trực tiếp và gián tiếp, kể cả nhân tố ý
thức hệ không bình thường, làm rối lịch sử nhân loại.
Đó là nhìn từ góc độ trừu tượng hóa thực tế lịch sử dân tộc, còn
chính cái thực tế lịch sử đó, như một nạn nhân của văn hóa kẻ thù, đã
ngốn vào trong nó không biết bao nhiêu xương máu của dân tộc; máu đã
ngấm vào mảnh đất này quá nhiều nên cái đức của quốc gia, dân tộc bị
tổn, khó mà khá lên được. Để đến bây giờ, khi một trong những kẻ thù lớn
truyền kiếp không có quan hệ mấy tốt hoặc một lô chữ vàng nào đó ra một
cái nghị quyết, giúp mình một tay để xử lý quan hệ với đồng chí của
mình, rất tương đồng về chính trị, mình hoan nghênh ngay cái rẹt. Biết
đâu bạn thù đây, cả lãnh đạo và nhân dân đây ?
Xích Tử