Diên Vỹ chuyển ngữ
Trích dịch từ cuốn Việt Nam: Nhà nước, Chiến tranh và Cách mạng (1945-1946) của David G. Marr, NXB: University of California Press, 2013.
Xem thêm những phần trong chương 7: Đối phó với Thành phần Đối lập trong nước:
Chương 7: Đối phó với Thành phần Đối lập trong nước
...
Công giáo: Đồng minh hay Kẻ thù?
Nhà thờ Công giáo và cộng đồng Giáo dân thiểu số Việt Nam đã tạo ra
một thách thức khác biệt đối với Hồ Chí Minh và nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà (VNDCCH) so với các tổ chức chính trị đã đề cập ở phần
trước. Đây là một cơ cấu tôn giáo lâu đời có quan hệ với Vatican và chế
độ thực dân trước đấy, nhưng trong khi đó một nghìn tư linh mục cộng với
vô số nhà lãnh đạo giáo dân đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những làn sóng
yêu nước trong hai thập kỷ trước, và 1,6 triệu người theo đạo Công giáo
(khoảng 8,5 phần trăm dân số Việt Nam năm 1945) sống trong các cộng đồng
có qui củ tại nông thôn hoàn toàn có thể được huy động cho các mục tiêu
chính trị và xã hội cụ thể. Trong những năm 1930, lần đầu tiên Toà
thánh La Mã đã tấn phong ba linh mục người Việt vào chức giám mục. Giới
trí thức Công giáo cũng hợp tác với trí thức ngoại đạo trong những dự án
hiện đại hoá. Các tổ chức thanh niên Công giáo bùng nổ. Đến những năm
đầu 1940, các nhà lãnh đạo thanh niên cũng như các linh mục trong các
giáo phận thường xuyên rao giảng tính tương thích giữa tình yêu Chúa và
yêu Tổ quốc. Dường như rất ít người Công giáo gia nhập các tổ chức Việt
Minh, một phần vì tin đồn rằng Việt Minh bị những người cộng sản vô thần
thống trị, và cũng vì nhiều người theo Việt Minh nhìn dân Công giáo
bằng cặp mắt đầy nghi ngờ. Cơ chế tổ chức của nhà thờ đa phần vẫn nằm
trong tay của một đại diện tông đồ người Pháp, mười một giám mục châu Âu
và 330 linh mục Pháp.
Sau cuộc đảo chính của Nhật ngày 9 tháng Ba 1945, những người Công
giáo lẫn ngoại đạo đã tổ chức những cuộc biểu tình và tuần hành yêu nước
chống thực dân . Giới linh mục và nữ tu ngoại quốc thình lình bị đe
doạ, mặc dù quân đội Nhật thường bảo vệ những ai sống trong khu vực
thuộc căn cứ của họ, người Việt Công giáo nói chung đã có thể tự bảo vệ
những tu sĩ nước ngoài vẫn còn nằm lại trong các giáo xứ ở tỉnh, các
trại mồ côi hoặc các tu viện. Trong một trường hợp ngoại lệ, một đám
đông đã xông vào cướp phá một trại mồ côi Công giáo tại Kẻ Số, Nam Định
vào ngày 11 tháng Tám, bắt đi người đứng đầu hội truyền giáo Pháp là Cha
Dupont và sau đó đã giết chết ông ta. Tại tỉnh láng giềng Ninh Bình,
một nhóm thanh niên Công giáo do Cha Hoàng Quyền dẫn đầu đã lặng lẽ rút
lên một đồn điền trung du sau khi Nhật đảo chính nhằm tổ chức, học quân
sự, in ấn và phân tán truyền đơn yêu nước về đồng bằng. Sau khi nghe tin
về điều khoản đầu hàng của Nhật, với vài khẩu súng trường, nhóm này đã
hành quân về thị xã Phát Diệm vào ngày 20 tháng Tám để chiếm chính
quyền, Cha Quỳnh đã gắn huy hiệu “Giám mục Việt Minh” cho giám mục địa
phận là Cha Lê Hữu Từ trong tiếng reo hò của hàng nghìn người. Năm ngày
sau, Văn Tiến Dũng, thành viên cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương
(ĐCSĐD) trong khu vực đã tảng lờ nhóm quân của Quỳnh khi công bố danh
sách hội đồng nhân dân cách mạng tỉnh Ninh Bình trong đó ông giữ chức
chủ tịch. Tại Hà Nội, danh sách “Chính phủ Nhân dân Lâm thời” được công
bố lần đầu tiên vào ngày 24 tháng Tám đã không có thành viên người Công
giáo, nhưng danh sách nội các lâm thời VNDCCH công bố vào ngày 27 và 28
tháng Tám đã bao gồm Nguyễn Mạnh Hà, một cựu lãnh đạo thanh niên Công
giáo và là người đứng đầu phòng Kinh tế Vụ Bắc Kỳ vào lúc Việt Minh
chiếm chính quyền.
Chủ nhật ngày 2 tháng Chín, ngày mà Hồ Chí Minh chọn để tuyên bố Việt
Nam độc lập và thành lập nước VNDCCH, lại trùng vào ngày “Thánh tử đạo
Việt Nam” nhằm vinh danh những người đã chết vì đạo Công giáo, đặc biệt
là trong giai đoạn thế kỷ Mười chín. Vào sáng sớm hôm đó, các nhà thờ
tại Hà Nội chật ních người đi lễ. Với động thái nhằm chứng tỏ hậu thuẫn
của công giáo Việt Nam với chính quyền mới, các linh mục đã dẫn giáo dân
của mình qua các phố đến quảng trường đang tổ chức Ngày Lễ Độc lập.
Cũng cùng ngày tại Sài Gòn, đã có những diễn tiến hoàn toàn khác khi có
những phát súng nổ vào đám đông đang tụ tập mừng Lễ Độc lập tại quảng
trường Norodom kế bên nhà thờ lớn. Một số người trong đám đông cho rằng
đạn chắc chắn được bắn từ tầng trên của nhà dòng, nhắm vào đám đông để
trả thù. Cha Tricoire, một linh mục râu dài của nhà tù vốn được nhiều
cựu tù chính trị người Việt thầm tôn trọng, đã bị bắn khi ông đứng trước
cửa chính của nhà dòng, và đã bị bỏ mặc cho ra máu đến chết trong vườn.
Trong tuần lễ đầu của tháng Chín ở Huế, giới lãnh đạo ĐCSĐD đã giết
chết Ngô Đình Khôi, một đại thần và thành viên gạo cội của dòng họ Công
giáo Ngô Đình đầy thế lực. Em trai ông là Ngô Đình Thục, giám mục Vĩnh
Long lúc ấy đang ở Hà Nội để gặp gỡ các thành viên của chính phủ mới.
Nhưng một người em trai khác là Ngô Đình Diệm lại đang bị giam giữ ở
ngoại ô Hà Nội (xem thêm ở dưới).
Khi những tin tức đáng quan tâm về những hành động hung hãn của quân
Anh tại Sài Gòn truyền đến miền bắc và trung Việt Nam vào giữa tháng
Chín, những người Công giáo đã cùng dân ngoại đạo tham gia các cuộc tuần
hành phản đối. Giới Công giáo cũng đã lập ra những cuộc biểu tình riêng
của họ vào Chủ nhật ngày 23 tháng Chín, nhằm đúng vào ngày chiến sự nổ
ra tại Sài Gòn. Tại cuộc biểu tình tại Hà Nội, các linh mục đứng trước
họ đạo trong giáo xứ dõng dạc bày tỏ tinh thần yêu nước cũng như niềm
tin tưởng vào Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại một cuộc biểu tình ở Huế, mọi
người đều lắng nghe bản tuyên bố kêu gọi nam giới chuẩn bị ra trận và nữ
giới đảm nhận vai trò tiếp tế và cứu thương, và cả hai phía đều bỏ qua
những bất đồng trên tinh thần đoàn kết dân tộc. Nhưng rồi việc này lại
kèm thêm điều kiện: “Tuy nhiên, đặc biệt đối với người Công giáo, chúng
ta phải đóng góp dựa trên nền tảng Tôn giáo của mình. Những việc gì có
nguồn gốc từ Đức Chúa Trời, chúng ta có thể làm ngay.” Khi cuộc biểu
tình kết thúc, mọi người hô to, “Vì Chúa, vì Tổ quốc!” và “Việt Nam hoàn
toàn độc lập muôn năm!”
Cũng vào ngày 23 tháng Chín, Giám mục Nguyễn Bá Tòng, đại diện cho cả
4 giám mục người Việt, đã gửi một thông điệp đến Giáo hoàng Pius XII
xin ông ban phước lành và cầu nguyện cho nền độc lập của Việt Nam, “vừa
mới giành được và nhân dân chúng tôi sẽ ra sức gìn giữ bằng mọi giá.”
Giám mục Tòng tìm cách chuyển hoá tầm quan trọng của ngày Thánh Tử Đạo 2
tháng Chín để trở thành một ngày trong đó “toàn thể người dân An Nam
không phân biệt tôn giáo” bày tỏ lòng yêu nước của mình, và quyết tâm
“bảo vệ chính quyền bằng máu của mình.” Thông điệp kết thúc bằng lời cầu
xin giáo hoàng, toà thánh La Mã, các hồng y, các tổng giám mục, giám
mục và giáo dân Thiên chúa trên toàn thế giới - đặc biệt là ở Pháp -
“ủng hộ quyết định của đất nước dấu yêu của chúng tôi.” Chúng ta không
biết được Giám mục Tòng có liên lạc với các thành viên của chính phủ
VNDCCH trước khi gửi bức điện này hay không, nhưng chắc chắn là Hồ Chí
Minh đã rất hài lòng với nội dung của nó. Dường như không một người nào
trong số mười bốn giám mục ngoại quốc tại Việt Nam được tham vấn. Không
cần phải thẩm định lòng yêu nước của Giám mục Tòng, chúng ta có thể
mường tượng rằng vào thời điểm nhạy cảm ấy ông đã liên tục lo lắng về
tình cảnh yếu thế của người Công giáo có thể bị người ngoại đạo tấn
công, và quyết định rằng một cam kết rất công khai với Hồ Chí Minh và
chính quyền mới là biện pháp bảo vệ tốt nhất đối với các tín đồ của ông
đang sống rải rác trong nước. Sáu thập niên trước, người Công giáo từng
trải qua những cuộc tàn sát khốc liệt khi quân Pháp tiến vào.
Từ đầu tháng Chín 1945, những tổ chức liên đới với Hội Cứu rỗi Quốc
gia bắt đầu mọc lên, đôi khi do những tu sĩ địa phương và đôi khi do
giới thanh niên giáo dân khởi xướng. Trước khởi nghĩa tháng Tám, Việt
Minh từng đưa hội Công giáo vào trong thành phần mặt trận đoàn kết của
mình, nhưng điều này có vẻ chỉ là ý tưởng chứ không là thực tế. Nguyên
tắc được công bố của hội hầu như giống hệt nguyên tắc của những hội cứu
rỗi quốc gia khác. Giờ đây nhiều hội đoàn thanh niên Công giáo trước đấy
chỉ đơn giản thay đổi tên, thảo ra qui chế mới và xin phép chính quyền
công nhận. Các báo Công giáo in lại "Mười Chính sách của Việt Minh" và
những thông báo mới đưa ra. Lá cờ quốc gia mới đôi khi được phủ trên
ngưỡng cửa chính của nhà thờ, và bên trong giăng những khẩu hiệu Việt
Minh. Các giáo sĩ người Pháp hoảng sợ nhưng không dám phản đối. Giới
lãnh đạo chính quyền VNDCCH hẳn đã rất hài lòng với việc những người
Công giáo ngã về hướng quốc gia, vào thời điểm mà chính quyền lâm thời
đang tuyệt vọng ra sức biểu dương tính chính danh của mình trước lực
lượng đồng minh đang tiến vào. Mặt khác, các nhà lãnh đạo ĐCSĐD có thể
đã lo lắng khi thấy Công giáo liên kết với Việt Minh nhưng lại không có
thành phần đảng viên, điều này đã vi phạm nguyên tắc "mặt trận đoàn kết
từ dưới lên" được đưa ra từ năm 1941.
Trang bìa báo Đa Minh số 150 (1 Tháng Mười một 1945): Bản đồ La Mã và Việt Nam được đặt cạnh nhau, cờ Vatican và VNDCCH cùng bay, và kêu gọi người đọc mến Chúa yêu Tổ quốc. Nguồn: Thư viện Quốc gia Việt Nam
Một tờ báo bán nguyệt san Công giáo xuất bản tại Nam Định đã chuyển tải tinh thần hưng phấn nổi bật xảy ra vào cuối năm 1945. Với tựa đề Đa Minh (Dominican), tờ báo đã được phát hành từ nama 1939 dưới sự bảo trợ của giám xứ Bùi Chu là Giám mục Hồ Ngọc Cẩn. Trên trang bìa số ra ngày 1 tháng Chín đăng hình một cây nến thắp sáng và những từ "VIETNAM độc lập". Trang bìa của số kế tiếp đăng một lá cờ Việt Minh - VNDCCH lớn và câu khẩu hiệu "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Muôn Năm!!!" Bên trong có một bài viết nhắc lại quá khứ đẫm máu mà người Công giáo phải chịu đựng tại Việt Nam. Bìa báo ngày 1 tháng Mười một vẽ một bản đồ thu gọn nhiều lần để làm La Mã và VNDCCH nằm gần nhau, một cột cờ với hai lá cờ Vatican và VNCDCH bay bên nhau, và một chiếc lư thờ lớn với hương khói đang toả lên. Bên dưới là câu khẩu hiệu: "Mến Thiên Chúa - Yêu Tổ Quốc". Có những bài báo biện minh cho việc người Công giáo tham gia vào "mặt trận tổ quốc," một bài tiểu sử của vị tân giám xứ Phát Diệm, Giám mục Lê Hữu Từ, và kể tiếp câu chuyện người Công giáo bị đàn áp ngày xưa. Những thông tin liên quan đến Việt Minh giảm đi trong những số kế tiếp. Trang bìa của số báo Giáng sinh đăng hình một ngôi sao sáng, nhằm đại diện cho ngôi sao Bethlehem lẫn ngôi sao trên lá cờ VNDCCH, cùng với một bài giảng về sức mạnh cứu rỗi từ việc Chúa ra đời và khát vọng cho hoà bình từ tăm tối và thắc mắc. Bên trong là một lời kêu gọi thống thiết cho tình đoàn kết lương giáo, và một thông báo ngắn ngủi của Sở Công an Nam Định rằng những cáo buộc về việc các nhà truyền giáo ngoại quốc đầu độc người dân đã được điều tra và không thấy đủ bằng cớ - thật thế, chắc chắn chúng chỉ là những đồn đãi do những kẻ phản quốc loan truyền.
Việc chính thức bổ nhiệm Lê Hữu Từ làm giám mục giáo xứ Phát Diệm
ngày 29 tháng Mười đã tạo một cơ hội hiếm hoi để nhà thờ và chính quyền
gặp nhau, chia xẻ quan tâm và rút ra bài học cho tương lai. Giám mục
Tòng và Giám mục Cẩn làm chủ lễ bổ nhiệm Từ, với sự đồng lòng của các
linh mục từ mười giáo phận, từ Lạng Sơn đến Huế. Không có một giám mục
ngoại quốc nào hiện diện. Phái đoàn của chính phủ VNDCCH do Cố vấn Tối
cao Vình Thụy dẫn đầu và bao gồm Võ Nguyên Giáp (bộ trưởng nội vụ), Phạm
Văn Đồng (bộ trưởng tài chính) và Nguyễn Mạnh Hà (bộ trưởng kinh tế và
là một giáo dân có vai vế) - rõ ràng là một động thái nổi bật của chính
phủ trong việc thừa nhận và quan tâm. Lá thư chúc mừng Giám mục Từ của
Hồ Chí Minh bày tỏ mối tin tưởng rằng ông sẽ lãnh đạo đồng bào Công giáo
của mình noi gương hi sinh của Chúa, và "đấu tranh bảo vệ quyền Tự do
và Độc lập của quốc gia." Hồ Chí Minh cũng mời Giám mục Từ vào chức cố
vấn tối cao cùng với cựu hoàng Bảo Đại. Trong buổi tiệc trưa, Giám mục
Từ được cho là đã nghiêng người sang đề nghị với Bảo Đại những đề xuất
chính trị của mình. Sau khi Bảo Đại thở dài và nói rằng ông không có
thực quyền, Giám mục Từ trả lời thẳng thừng, "Vậy thì ông quá tệ." Giám
mục Từ tỏ vẻ kiên quyết về chính trị, cả trong tôn giáo lẫn ngoài đời.
Cũng trong cùng bữa tiệc ấy, Giám mục Từ đã nói với Nguyễn Mạnh Hà
rằng ông đã đồng ý với đề nghị của Phạm Văn Đồng để tham gia Hội Cứu rỗi
Quốc gia của Việt Minh. Hà kêu gọi Giám mục Từ nên cân nhắc lại hành
động này vì nó bị người Công giáo phản đối khắp nơi, do đó sẽ tạo ra
chia rẽ trong thời điểm vô cùng nhạy cảm này. Khi Giám mục Từ trả lời
rằng ông không thể rút lời được, Hà đề nghị ông nên phát động một tổ
chức độc lập mới. Trong buổi thảo luận trưa hôm ấy, khi một số đại diện
các nhà thờ khác nhấn mạnh rằng Hội Cứu rỗi Quốc gia không nên hợp nhất
hoàn toàn với Việt Minh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp bèn chấp nhận
rằng hội này có thể giữ nguyên cơ cấu song song và đối tác ngang hàng
với giới lãnh đạo Việt Minh ở mỗi cấp. Công thức "mặt trận đoàn kết từ
phía trên" này đã được ghi nhận rõ ràng trong những giấy phép do Đồng ký
tên đại diện cho Việt Minh lẫn chính phủ. Buổi trưa kết thúc với một
cuộc diễn hành lớn tại sân vận động Phát Diệm, với cả những băng rôn yêu
nước và hô khẩu hiệu.
Mãi đến tối hôm ấy Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp mới biết được kế
hoạch thành lập một tổ chức khác với tên Liên đoàn Công giáo Việt Nam,
mang tính "tôn giáo" hơn Hội Cứu rỗi Quốc gia, và chịu sự quản lý của
nhà thờ nhiều hơn. Được biết là Đồng và Giáp đã rất giận dữ với Giám mục
Từ, và họ đã không thèm nói chuyện với Nguyễn Mạnh Hà trong cả tuần. Ít
nhất họ cũng hài lòng rằng các giám mục người Việt đã gửi một thông
điệp đến Vatican, London và Washington, kêu gọi giáo dân trên toàn thế
giới hỗ trợ "đất nước chúng tôi đang bị chiếm đóng và những người dân,
được thúc đẩy bởi lòng yêu nước thuần thành, đang bị thảm sát trên chiến
trường." Sáu tuần sau tại Huế, đại diện toà thánh từ Indonesia, Tổng
Giám mục Drapier đã giải thể Liên đoàn Công giáo vừa thành lập tại Phát
Diệm và ban hành một qui chế tạm thời của ông để thành lập một tổ chức
khác với cùng tên gọi. Cũng cùng khoảng thời gian này, một tổ chức thứ
ba mang tên Quốc gia Công giáo thông báo thành lập và tiến tới lên án
chủ nghĩa cộng sản vô thần cũng như lên tiếng ủng hộ đề nghị của Việt
Nam Quốc dân Đảng thành lập một mặt trận quốc gia chống Việt Minh. Từ
giữa tháng Mười hai, lại có thêm một nhóm khác xuất bản tờ Hồn Công Giáo,
một tờ báo bí mật từ Hà Nội trong đó chủ yếu dồn những chỉ trích đến
những người Công giáo nào tham gia Hội Cứu rỗi Quốc gia, đồng thời cũng
lên án hội Quốc gia Công giáo là đã đứng về phe của Việt Nam Quốc dân
Đảng. Hồn Công Giáo khẳng định rằng Việt Minh đã dựa vào phát
xít Nhật để chiếm quyền lực, cảnh cáo giáo dân rằng Vatican đã cấm họ đi
về phe cộng sản, và tuyên bố rằng Giám mục Ngô ĐìnhThục và em là Ngô
Đình Diệm đã bị Việt Minh bắt giữ. Cả tờ Hồn Công Giáo lẫn tờ Việt Nam đã đăng cụ thể những trường hợp các linh mục bị bắt giữ và cờ Vatican bị xé bỏ, đặc biệt là tại miền trung Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến cuối năm 1945 hầu hết người Công giáo đều có vẻ
nhiệt tình ủng hộ Hồ Chí Minh và chính phủ VNDCCH trong khi vẫn e ngại
về Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) cũng như thái độ chống Công giáo của
những người theo Việt Minh. Những người Công giáo yêu nước cảm thấy xấu
hổ khi Tổng Cao uỷ Đông Dương, Đề đốc d’Argenlieu từng là một tu sĩ
dòng Carmelite trước khi phục vụ Tướng de Gaulle vào năm 1940. Trước lễ
Giáng sinh, với sự cho phép của Giám mục Hồ Ngọc Cẩn, một buổi mít tinh
và diễn hành lớn nhằm ủng hộ chính quyền đã được tổ chức tại giáo phận
Bùi Chu với chuông nhà thờ ngân vang và hang nghìn người vũ trang diễn
hành qua lễ đài. Một nhà báo Việt Minh đã đặc biệt bất ngờ khi trông
thấy một đơn vị nữ vũ trang, và đã ca ngợi họ dám từ bỏ mái ấm quê nhà
để bảo vệ đất nước. Ở Huế, một nhà văn đã viết bài ca ngợi lễ Giáng sinh
độc lập đầu tiên sau suốt tám mươi năm bị Pháp xúi dục hai bên lương
giáo chống nhau, người dân giờ đây có thể noi gương hi sinh của Chúa để
đem lại tự do, độc lập và hoà bình cho nhân loại. Cuộc bầu cử Quốc hội
sắp đến đã khiến cho một số giáo phận tiến cử các linh mục hoặc những
người đứng đầu họ đạo vào danh sách tranh cử, và chỉ đạo cho giáo dân
thể thức đi bầu. Giám mục Lê Hữu Từ phát hành một bức thư mục vụ về cuộc
bầu cử- tầm quan trọng chính trị của nó, sự cần thiết phải có những đại
biểu Công giáo có tài, giá trị chiến thuật trong việc thành lập một
giáo khu với những người ngoại đạo đáng tin cẩn, và sự cần thiết trong
việc hướng dẫn giáo dân không được bầu cho ai khác. Ông tiên đoán rằng
các đại biểu chống Công giáo tại Quốc hội sẽ thảo ra những luật lệ gây
bất lợi cho tôn giáo , đạo đức, hoặc quyền sở hữu tài sản của nhà thờ,
vì thế điều quan trọng là giới Công giáo thiểu số phải biết tạo dựng một
liên minh đối với những vấn đề quan yếu.Tại Ninh Bình, có bốn người
Công giáo, dẫn đầu là Cha Phạm Ngọc Chi và có cả Ngô Tử Hạ, chủ một nhà
in lớn tại Hà Nội đã tham gia ứng cử vào cuộc bầu cử Quốc hội ngày 6
tháng Giêng 1946. Các nhân viên bầu cử tuyên bố chỉ có Hạ thắng cử và
Việt Minh thắng ba ghế còn lại. Giám mục Từ đã gửi ngay điện tín đến
chính quyền trung ương tố cáo nạn gian lận bầu cử và doạ sẽ tổ chức một
cuộc biểu tình phản đối. Chính quyền nhanh chóng trả lời rằng một số
phiếu bầu đã bị vô tình đánh mất và thật ra thì Cha Chi cũng thắng cử.
Cảm thấy câu trả lời không thành thực, Giám mục Từ quyết định rằng Cha
Chi không nên tham gia Quốc hội. Ba linh mục Công giáo từ những tỉnh
khác cũng đã thắng cử vào Quốc hội, và Ngô Tử Hạ được vinh dự làm chủ
trì phiên họp quốc hội ngày 2 tháng Ba. Không có ai trong số năm ứng cử
viên Công giáo tại Hà Nội thắng cử. Rõ ràng Giám mục Từ và những người
lãnh đạo Công giáo khác đã kỳ vọng rằng Quốc hội sẽ đóng vai trò chuyển
hướng trong nền chính trị VNDCCH, phân cách được chuẩn mực cộng sản và
cai trị độc tài. Những kỳ vọng của họ với Quốc hội mau chóng bị xoá bỏ,
và những ngờ vực về sự tráo trở của cộng sản càng được củng cố.
Vào cuối tháng Giêng, Hồ Chí Minh bất ngờ đi Phát Diệm để thông qua
việc bổ nhiệm Giám mục Lê Hữu từ làm cố vấn tối cao cho chính quyền
VNDCCH. Người gác cổng già của tu viện chạy vào báo với vị giám mục rằng
"một ông già đội nón cối chống gậy, mặc áo bốn túi muốn vào gặp Đức
ông." Không hề lúng túng trước cuộc viếng thăm đầy bất ngờ của vị chủ
tịch nhà nước lâm thời, Từ nói chuyện với Hồ suốt một giờ trong khi phụ
tá của ông lo thu xếp lễ tiếp tân chính thức, trong buổi tiệc Hồ kết
thúc phát biểu của mình bằng cách hướng dẫn các linh mục hô to ba lần
"Đức Chúa vạn tuế!" Sau đấy mọi người tụ tập đến nhà hát của thị xã, nơi
các học sinh trường dòng và đoàn thiếu niên hát hò ca ngợi Hồ Chủ tịch
và chính quyền. Hồ đặt tay lên vai Giám mục Từ và khuyến khích mọi người
có mặt bày tỏ quan tâm của họ đến vị cố vấn tối cao để cùng tìm ra giải
pháp. Theo lời một nhân chứng, "Hồ Chí Minh, với quần áo giản dị, giọng
nói quả quyết và cử chỉ thân thiện đã chuyển hoá được cử toạ." Một số
cụ già đã bật khóc khi được Hồ bắt tay thăm hỏi sức khoẻ. Chỉ trong vài
ngày, Giám mục từ đã được gọi là Đức Cố Vấn và người ta sáng tác bài hát để ca ngợi chức vụ của ông.
Mối quan hệ cá nhân giữa Hồ Chủ tịch và Giám mục Từ đã giúp ích cho
cả chính phủ lẫn người Việt Công giáo. Chính quyền VNDCCH cần hơn hết
việc không cho chính giới Pháp cơ hội sử dụng vấn đề Công giáo làm lý do
để can thiệp toàn phần vào Việt Nam. Mối quan hệ ấm cúng với giới tu sĩ
Công giáo Việt Nam giúp nâng cao hình ảnh ôn hoà của Hồ ở trong và
ngoài nước. Việc nhà thờ ủng hộ chính quyền VNDCCH cũng khiến giới Công
giáo địa phương không hợp tác với lực lượng Pháp đang tiến vào. Nhà thờ
cũng dùng quyền lực và danh tiếng của Hồ như là một vận cản chống lại áp
lực từ ĐCSĐD và Tổng bộ Việt Minh đang muốn bắt họ tuân phục trong các
vấn đề tư tưởng, an ninh, tổ chức và tài chính. Hai giáo phận Bùi Chu và
Phát Diệm tiếp tục thu thập vũ khí và huấn luyện các đội dân quân nghĩa
binh mà không bị các quan chức VNDCCH can thiệp. Người Công giáo ở
những nơi khác ít được bảo vệ hơn, mặc dù các chi nhánh của Liên đoàn
Công giáo được thành lập tại nhiều tỉnh như là một tổ chức không chính
thức thay thế các nhóm của Hội Cứu rỗi Quốc gia. Đa số những nỗ lực tịch
thu tài sản của nhà thờ có vẻ đã bị ngăn chặn bởi lệnh từ trên xuống.
Giám mục Từ đóng vai trò cố vấn tối cao của mình một cách nghiêm túc,
ông chuyển gửi những khiếu nại, ý kiến và đề xuất của công dân lên văn
phòng chủ tịch tại Hà Nội. Sau sự kiện Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng Ba
1946, Giám mục Từ đã đi Hà Nội phê phán Hồ Chủ tịch việc đã nhượng bộ
quá nhiều cho người Pháp. Được biết là Hồ đã trả lời: "Vận mệnh của
chúng ta trong lúc này là phải quì xuống để tiến đến độc lập. Xin hãy
tin tưởng vào tôi." Giám mục Từ vẫn nghi ngại và thật ra đã gửi người
đến để trao đổi với lực lượng Quốc gia đối lập, nhưng cũng không tìm
được một giải pháp nào khác ở họ. Với việc Hồ đi Pháp vào cuối tháng
Năm, tầm ảnh hưởng của Giám mục Từ đối với chính phủ đã giảm đi rõ rệt.
(còn tiếp)