Để cùng đi “con đường chính” với “Phần còn lại của thế giới”, với
Loài người văn minh, nên Việt Nam muốn nêu rõ quan điểm của mình về vấn
đề “Biển Đông”. Sau đây là tổng hợp chưa đầy đủ tư duy của người Việt
Nam nói với bạn bè năm châu.
Muốn giải quyết triệt để những xung đột cụ thể giữa Việt Nam với TQ
hiện nay, xin trình bầy sâu xa cội nguồn vấn đề. Chủ nghĩa bành chướng
bá quyền Đại Hán tồn tại từ hàng ngàn đời nay trên đất Trung Hoa, nó
không chỉ là kẻ thù của VN, mà ngay cả hiện nay nó cũng là kẻ thù của
hầu hết các dân tộc sống trên giải đất Trung hoa rộng lớn; nó đã từng
giúp thâu tóm, chiếm đóng và đồng hoá hàng loạt các nước nhỏ sống trên
giải đất Trung Hoa này (nay chỉ còn sót lại một phần với những cái tên:
Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Ngô Duy Nhĩ .. .). Nó cũng từng muốn thực
hiện mưu đồ như vậy với Việt Nam, nhưng đã bao lần nó thất bại. Nay, đã
sang thế kỷ XXI, mục tiêu chiến lược (tức Đại cục) của thứ Chủ nghĩa
quái dị này vẫn tồn tại và còn tai ác hơn thời xưa: Nếu trước kia Đại bá
Trung Hoa chỉ có mục tiêu chiếm rộng ra các nước xung quanh, trong đó
có VN, thì ngày nay mục tiêu Đại bá (tức Đại cục) ấy đã là tiến tới
chinh phục và thống trị cả thế giới (Khác xa mục tiêu hạn hẹp, phần lớn
chỉ đơn thuần tập trung bóc lột kinh tế của các đế chế thời xưa và các
đế quốc thực dân thế kỷ trước). Không ít những người cầm quyền TQ hiện
nay vẫn tôn sùng chủ nghĩa này, và đang tìm cách khôi phục nó, nên cần
chứng minh bản chất của CN BCBQ Đại Hán cho phần lớn nhân dân TQ và hầu
hết nhân dân thế giới bằng các chứng cứ hùng hồn của lịch sử và hiện
đại.
Để thực hiện được dã tâm chiến lược tổng quát (Đại cục), Đại bá Trung
Hoa sẵn sàng chà đạp lên luật pháp và mọi thông lệ quốc tế và khu vực.
Đối với VN, CN BCBQ Đại Hán đã vướt bỏ tình “đồng chí”, “Mười sáu chữ
vàng”, tự lột mặt nạ và vứt bỏ quá sớm lời di huấn xảo quyệt của Đặng
Tiểu Bình là phải “Dấu mình chờ thời”, thực hiện ngay phương châm “mục
đích biện minh cho giải pháp, dù dã man tàn bạo”, với đường lối “vì
quyền lợi “cốt lõi” quốc gia ngày càng mở rộng, thì không phụ thuộc một
thứ luật pháp hay tập quán quốc tế nào!” Không chỉ ở VN, đối với nhiều
nước khác, CN BCBQ Đại Hán cũng bắt đầu sử dụng mưu ma chước quỷ và lợi
thế nước lớn để đạt được cái gọi là Đại cục đã đề cập.
Vì vậy, để đấu tranh thắng lợi bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, xây
dựng thành công Dân giầu nước mạnh, xã hội Tự do, Dân chủ, Công bằng,
Văn minh, chúng ta không thể mơ hồ mà không nhận thức sâu xa điều đó và
thấy rõ rằng, chúng ta đã chịu đựng, mềm dẻo, nhân nhượng và nhầm lẫn
quá nhiều. Chính dịp này cần xem xét lại một cách thẳng thắn, công khai,
minh bạch toàn bộ các vấn đề đối nội và các vấn đề liên quan với Trung
Quốc và với quốc tế, coi hai nhiệm vụ Xây dựng và Bảo vệ đất nước là có
liên quan chặt chẽ, hữu cơ qua lại với nhau.
Đối với hoàn cảnh của VN hiện nay, cần tìm cách tốt nhất để có được các “sức mạnh mềm” vượt trội, quan trọng nhất là:
Làm rõ tính chính nghĩa ở phía VN
Đại đoàn kết được toàn dân và với “Phần còn lại của thế giới”
Lấy lại được lòng tin vào giới lãnh đạo đối với nhân dân VN và bạn bè quốc tế
Đại đoàn kết được toàn dân và với “Phần còn lại của thế giới”
Lấy lại được lòng tin vào giới lãnh đạo đối với nhân dân VN và bạn bè quốc tế
Chúng ta biết chắc chắn, 3 điều này là VN sẽ có được, còn TQ hiện nay
không đào đâu ra, (nên TQ phải lập nhiều mưu mẹo xảo quyệt và sử dụng
sức mạnh tàn bạo!).
I- Để làm rõ tính chính nghĩa và sự khác biệt:
Phần mở đầu đã nói rõ. CN BCBQ Đại Hán không chỉ chiếm đất, chiếm của
cải tài nguyên, mà còn muốn đồng hoá để tiêu diệt tận gốc sự chống trả
của các dân tộc bị chiếm đóng. Đó là sự dã man tột độ, là những gì đã
xẩy ra trên giải đất Trung Hoa từ hàng vạn năm nay và đang tiếp tục xẩy
ra với Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng và Ngô Duy Nhĩ. . . (ví dụ về sự
nham hiểm: CN BCBQ Đại Hán chiếm được nơi mới nào, sẽ đấu tranh “giữ
nguyên trạng”, dùng ngay nơi đó làm biên giới mới để lập mẹo tranh chấp
hòng chiếm đoạt tiếp nơi khác xa hơn, rộng hơn).
Cần làm rõ chân lý: Việt nam đã từng là nạn nhân từ hàng mấy ngàn năm
của CN BCBQ Đại Hán, chứ không phải chỉ là đụng độ tranh chấp thông
thường về lãnh thổ và lãnh hải theo cách mà mọi người đang hiểu và như
đang xẩy ra ở các nơi khác trên thế giới. Ngày nay, nếu CN BCBQ Đại Hán
không thật sự bị loại bỏ, nếu nhân dân Trung Quốc chưa làm chủ thật sự
văn minh được đất nước mình, thì nạn nhân không chỉ là chính họ, là các
lân bang, mà sẽ còn là cả khu vực và sẽ đến lúc là cả thế giới. Như vậy,
trong cuộc đấu tranh chống CN BCBQ Đại Hán, tính chính nghĩa không chỉ
nằm về phía VN, phía Philipin, Malaixia . . ,mà còn nằm ở cả “Phần còn
lại của thế giới”.Chính vì vậy khi toàn thế giới đã bừng tinh, tất yếu
sẽ nhất tề đứng lên cùng VN chống lại, chặn đứng CN BCBQ Đại hán. Cho
nên, mọi người hãy góp sức của mình làm cho cả thế giới thấy rõ bản chất
cội nguồn vấn đề “Biển Đông” : Chủ nghĩa BCBQ Đại Hán là nguyên nhân
của đụng đầu nguy hiểm ở khu vực này và nhiều nơi khác hiện nay.
Một điều rất hiển nhiên, một khi 2 bên nào đó tranh chấp khó tự giải quyết, người ta đều nhờ đến bên thứ ba giúp khách quan phân giải . Người thứ ba đó, trong trường hợp quan trọng, tốt nhất là nên nhờ đến các toà án của quốc tế để làm rõ tính chính nghĩa thuộc về bên nào.
Một điều rất hiển nhiên, một khi 2 bên nào đó tranh chấp khó tự giải quyết, người ta đều nhờ đến bên thứ ba giúp khách quan phân giải . Người thứ ba đó, trong trường hợp quan trọng, tốt nhất là nên nhờ đến các toà án của quốc tế để làm rõ tính chính nghĩa thuộc về bên nào.
II- Về khả năng đại đoàn kết của VN:
1. Bằng mọi cách, tận dụng mọi cơ hội để nói rõ tính chính nghía của
VN và sự khác biệt với nhiều cuộc đụng độ tranh chấp thông thường giữa
các quốc gia dân tộc ở những nơi khác, như tại Syri, Lybi, Apganistan,
Ukraine, Grudia . v. v. . . .Biểu hiện khắp nơi trên thế giới vừa qua
phản đối Chủ nghĩa BCBQ Đại Hán để ủng hộ VN đã thể hiện tình đoàn kết
rộng lớn này.
2. Đối nội, rất cần từ bỏ “đường lối phân biệt, áp đặt và bạo lực”
của CN Mác – Lê lỗi thời, vận dụng thật tốt tư tưởng và đường lối Hồ Chí
Minh: “Trân trọng, liên kết vận dụng những khác biệt, kể cả đối lập .
.” để thấu hiểu và thực sự cách mạng nhằm gạt bỏ được mấy sức cản sau
đây: Một là phần rơi rớt của sự khác biệt mang tính hình thức và cố chấp
của chúng ta về “ý thức hệ Mác – Lê – Mao” với “Phần còn lại của Thế
giới”. Đó là sức cản lớn nhất làm cho VN chưa thực sự đi cùng và hợp tác
đầy đủ được với các nước văn minh; Hai là, sự ràng buộc “ý thức hệ” với
TQ, bó chân bó tay chúng ta bởi “16 chữ vàng” giả tạo, vì bị mê hoặc và
bị sức ép của nước lớn. Ba là, chưa hoà giải dứt điểm được trong nội bộ
dân tộc; Bốn là những khuyết tật xã hội lớn do tồn tại lịch sử và sai
lầm thể chế từ năm 1975 đến nay.
Xin nêu mấy gợi ý riêng biệt, nhưng chúng đều có tác động tổng hợp
đến cả 4 cái sức cản nói trên. Nếu khắc phục được 4 sức cản chính đó,
chúng đều giúp tạo ra những “cây gậy lớn” cho dân tộc ta.. Đó là:
2.1- Nêu cao mục tiêu số một là Hoà bình, ổn định, thống nhất đất
nước và toàn vẹn lãnh thổ.. Mục tiêu CNXH, vì còn khá mơ hồ xa vời, lại
bị tệ nạn xã hội và sai lầm thể chế cũ che phủ, bị “ông bạn cùng lý
tưởng CNXH” bôi nhọ và lật lọng, nên nhiều người không tin, nhất là
“Phần còn lại của thế giới”, do đó để tránh tranh luận, phân tâm, mâu
thuẫn, giai đoạn hiện nay ta chỉ nên tập trung vào mục tiêu Dân giầu,
Nước mạnh, tự do, dân chủ và công bằng.
2.2- Cần thể hiên mục tiêu Dân làm chủ ra một cách thực chất, rõ
ràng, bằng những nội dung, biện pháp cụ thể, ai cũng thấy rõ, , tránh
nói chung chung như hiện nay. Nội dung chi tiết thì đương nhiên cần bàn
kỹ. Chỉ xin nêu một số ý lớn. Một là: Cương quyết dũng cảm hoàn thiện
nốt thể chế Dân làm chủ, chứ không phải vẫn giữ Đảng làm chủ như hiện
nay (vì không thể coi Hiến pháp lại là thể chế hoá Cương lĩnh đảng); Hai
là chọn phương án quá độ cho thể chế chính trị: Độc đảng, nhưng đa
nguyên. ( xin xem chú thích *) Ba là: Chính thức xem xét công khai lại
mối quan hệ “16 chữ vàng” giữa 2 đảng và 2 nước VN – TQ dưới áng sáng
của những biểu hiện mới của TQ (xin xem chú thích **); Bốn là: Do bị sức
ép quá lớn của CN BCBQ Đại Hán, nước ta nên – nhân dịp này – thông minh
và dũng cảm “đột phá” nâng tầm từ “đối tác” lên “liên minh chiến lược”
với một số nước tư bản tiên tiến hùng mạnh để có thể đi cùng thế giới
phát triển, hoà nhập vào con đường chính của Nhân loại (Như Anh, Mỹ,
Pháp, Nga và Nhật chẳng hạn) (xin xem chú thích ***); Năm là:Thực tâm
trả lại cho Mặt trận Tổ quốc chức năng, nhiệm vụ vốn có của nó từ thời
cách mạng Dân tộc dân chủ; Sáu là, Chính thức cho phép Xã hội dân sự vì
dân vì nước hoạt động. Chính phủ sẽ cùng XHDS xây dựng môi trường kiến
tạo phát triển. Bẩy là: Thả hết tù nhân lương tâm và chính trị nếu họ
cam kết chỉ đấu tranh vì nước vì dân thật sự (theo tinh thần “trân
trọng, liên kết, vận dụng có hiệu quả các khác biệt, kể cả đối lập”. Với
quyết sách này, VN sẽ dùng một mũi tên trúng ngay 2 mục tiêu: Đoàn kết
Dân tộc, và Đoàn kết quốc tế.
III. Lấy lại lòng tin vào Ban lãnh đạo Đảng và Chính quyền trong nhân dân và bạn bè thế giới:
1- Tuyên chiến công khai với những sai lầm của cơ chế, thể chế cũ mà
Đảng và Chính phủ đã thừa nhận bằng cách dũng cảm thực hiện các “đột
phá” của TƯ Đảng đã được nhắc lại một phần tại mục I và II.
2- Nhân dịp “đột phá” tư duy này, hãy nêu cao duy nhất tư tưởng đường
lối Hồ Chí Minh trong Hiến pháp và trong đời sống: “Đại đoàn kết, trân
trọng, liên kết, hợp tác và vận dụng hiệu quả cả những khác biệt, thậm
chí đối lập” ở trong nước và đi cùng được với thế giới văn minh phục vụ
cho mục tiêu chung số 1 hiện nay của dân tộc. Từ bỏ phân biệt, áp đặt và
bạo lực với dân. Đây mới chính là thực tâm học tập đạo đức HCM ! Như
vậy sẽ đồng thời gỡ bỏ được xung khắc giữa VN và nhiều nước TB tiên tiến
hiện nay để hoà vào trào lưu văn minh thế giới, đặc biệt là Mỹ Anh Pháp
Nga Đức Nhật v.v. . .
3- Thực hiện ngay mấy chủ trương chi tiết “tượng chưng” để tạo một
“cú huých“ thoạt nhìn cho là hình thức, nhưng chính là để khẳng định tư
duy đổi mới thật lòng của Đảng, khôi phục lại niềm tin như sau đây:
a)Mọi nơi luôn luôn phải treo cờ Tổ quốc lên trên, hay phía trước cờ
Đảng (kể cả trong các cuộc họp nội bộ đảng); Các khẩu hiệu, không đề cao
đảng trước Tổ quốc, ví dụ: “Mừng Đảng, mừng Tổ quốc, mừng Xuân”; tại
tất cả các cuộc hội họp, mét tinh, Đảng nên chủ động đề nghị luôn luôn
giới thiệu đại biểu của toàn dân trước, sau đó mới giới thiệu các đại
biểu của Đảng ngang cấp (bởi Đảng chỉ là một bộ phận trong dân , để thể
hiện sự khiêm tốn trong tư duy của lãnh đạo, tránh ỉ lại uy tín có được
do quy định, v. v. . .b) Cũng vậy, Đảng cần đi đầu tạo một phong trào
trong nội bộ Đảng trước thực hiện chủ trương CÔNG KHAI, MINH BẠCH VÀ
GIẢI TRÌNH để làm gương chống tham nhũng tiêu cực; Đảng cũng cần đi đầu
trong cải cách quản lý, tinh giản biên chế, tiết kiệm ngân sách . .v .v .
. . .Nếu Đảng thực sự đi đầu, nghiêm túc gương mẫu, cách mạng triệt để,
thì lòng tin của Dân vào Đảng sẽ tự nó khôi phục, trật tự xã hội sẽ tự
nó tăng lên.
Dịp này quả thực là thời cơ “Trời ban cho” để đội ngũ cán bộ Đảng và
Chính quyền dẹp bỏ tối đa vương vấn cá nhân, bè nhóm lợi ích, sự dụt dè
nể nang TQ và mất cảnh giác hợp tác quá mức an toàn, để thể hiện hùng
hồn, rằng nhân dân đã chọn đội ngũ lãnh đạo hiện nay là không quá kém
như nhiều người lầm tưởng, trái lại hy vọng thực tiễn sẽ chứng minh,
rằng có khó khăn mới lộ ra sức mạnh, có gian nan mới thử được lòng
người, chỉ lửa mới thử được vàng! Hơn thế, nếu Ban lãnh đạo hiện nay mà
“đột phá” được như đã trình bầy (đã cụ thể hoá một phần những chủ trương
rất tổng quát,nhưng cũng còn khá chung chung mơ hồ của Đảng), thì nước
ta không chỉ đủ sức mạnh chống CN BCBQ, mà còn nâng cao được Dân chí,
Quan trí và Đảng trí nói chung, xây dựng được môi trường kiến tạo phát
triển (như kiến nghị của Viện SENA), làm trong sạch được xã hội (như NQ
TƯ 7 vừa nêu), vừa bảo vệ được Tổ quốc, vừa phát triển được Đất nước,
đóng góp xứng đáng với hoà bình và tiến bộ của thế giới.
Hà Nội, ngày 19, 5, 2014
Vũ Duy Phú
(Tổng hợp nhanh những tư duy được chọn lọc trong xã hội)
© Đàn Chim Việt
—————————————————————-
Chú thích
(*) Để đảm bảo đoàn kêt thật sâu rộng được toàn dân, và với toàn thể
“Phần còn lại của thế giới”, trong thời điểm lịch sử này, thì Đảng ta
cần phải chọn những giải pháp tình thế, quá độ về thể chế.. Tại sao?
+ Ai cũng thừa nhận rằng hiện nay cộng đồng toàn cầu đang tập hợp vào
2 luồng tư duy về thể chế chính trị chính: Một bên, đa số tuyệt đối,
thì ưa Thể chế đa đảng đa nguyên. Một bên, rất thiểu số, vẫn muốn thể
chế độc quyền toàn trị. Mặc dù 2 loại thể chế đó đều có mặt tốt, mặt
xấu, và do đó đều cho rằng mình có lý hơn cả. Chính sự khác nhau này tạo
ra khoảng cách vô hình ngăn cản giữa Đảng ta và .một số không nhỏ dân
cư trong nước và người Việt ở nước ngoài, giữa nước ta và một số nước tư
bản rất muốn ủng hộ chúng ta nhiều hơn (Mỹ Anh Pháp Đức Nhât Nga .v .v
.. .); đồng thời lại tạo ra cảm tưởng nhầm lẫn vu vơ vô lý rằng ta và TQ
vẫn là cùng phe, cùng “lý tưởng” !. Rõ ràng VN không thể “hy sinh” dân
tộc mình cho cái “Đại cục” của Chủ nghĩa bành chướng bá quyền Đại Hán.
Do đó, để đoàn kết nội bộ thật chặt chẽ và đoàn kết quốc tế thật rộng
rãi,thực lòng , có hiệu quả, ta nên công khai chọn một thể chế chính trị
quá độ, đó là chế độ độc đảng nhưng đa nguyên chính trị. Giữ độc đảng
để ổn định, chỉ đạo tập trung, thích hợp thời “nửa chiến tranh” hiện nay
và thoả mãn ngyện vọng của phe “kiên trì”. Chấp nhận đa nguyên để đại
đoàn kết và phát huy trí tuệ sáng tạo của toàn dân tộc, biết lắng nghe ý
kiến nhân dân như đã và đang bắt đầu, tiếp thu có hiệu quả nhất sự ủng
hộ của quốc tế và thoả mãn nguyện vọng của phe cải cách theo phương Tây
và Nga,
(**) Xem xét lại ngay nội hàm “đồng minh chiến lược”, “đồng chí lý
tưởng với 16 chữ vàng” với chính quyền Trung Quốc, xem bây giờ nên giữ
lại cái gì, nên ứng sử với nhau thế nào; không thể tin tưởng mù quáng
như mấy chục năm qua, cần căn cứ trước hết và cao nhất là luật pháp,
thông lệ quốc tế và thoả thuận khu vực. Một khi Trung quốc đã tự mình
xoá bỏ cam kết “ hợp tác chiến lược toàn diện” với VN, thì VN, một nước
nhỏ, vì quyền lợi tối cao của Đất nước mình, buộc phải tạo dựng cam kết
liên minh chiến lược với các nước khác. Lâu nay chúng ta đã bị lòng tin
mơ hồ rằng ta và TQ có chung lý tưởng XHCN, có chung kẻ thù, đã cùng
nhau chiến đấu hy sinh. Nhưng đã đến lúc cần nói thật rõ cái sự nhầm
lẫn: Phần được của Việt nam là giành được độc lập thống nhất cho Tổ
Quốc, với cái giá cực lớn phải trả là xương máu ngút ngàn, dân tộc li
tán, đất đai tan hoang, kinh tế sút kém, môi trường ô nhiễm, lệ thuộc CN
BCBQ Đại Hán, bạn bè hiểu nhầm (tưởng VN đem CN CS về ĐNÁ . . .); Phần
được của TQ là: (muốn “Giúp VN đánh Mỹ đến người VN cuối cùng”) để Ép
được Mỹ và Phương Tây phải tôn trọng, mở cửa hợp tác, làm ăn bình đẳng
với TQ, đầu tư vốn và công nghệ giúp TQ trở thành công xưởng lớn nhất
thế giới, sẵn sàng làm thị trường tiêu thụ cho TQ . . .với cái giá TQ
phải trả chỉ là cung cấp một phần súng đạn, quân trang và quân lương
(Nếu lấy “tỷ số giữa cái nhận được trên cái đã bỏ ra” sau cuộc chiến mấy
chục năm tại VN vừa qua, thì TQ thu được tỷ số lớn nhất, VN chỉ đứng
thứ 2 và Nga thứ ba). Vậy tổng hợp lại, người dân Việt và nhân dân TQ
nên tự hỏi, rằng ai phải biết ơn ai sau chiến thắng 1975 của VN ? Chính
người dân VN, lãnh đạo VN cần phải thấu hiểu trước tiên điều này, đừng
tiếp tục nhầm lẫn rằng, chỉ VN phải mang ơn TQ..
(***) Chủ trương đi cùng “Phần còn lại của thế giới văn minh” này của
chúng ta không chỉ dựa trên tư tưởng đường lối sáng suốt của Hồ Chí
Minh (mới nêu lại ở trên), Người đã lãnh đạo thành công cách mạng VN từ
thế kỷ trước,mà còn dựa trên tiên đoán rất sáng suốt của Các Mác, rằng
các nước tư bản tiên tiến văn minh nhất sẽ tiến hoá trước lên một xã hội
văn minh hơn xã hội Tư bản hiện nay, mà giới triết học phương Tây gọi
là “Xã hội hậu tư bản”. Chủ nghĩa BCBQ Đại Hán là thứ còn rất hủ bại,
tụt hậu ở mãi xa phía sau so với ngay CNTB hiện nay, vì vậy ta không thể
“vị nể nước lớn” mà liên minh với thứ CN lạc hậu này. Ta chỉ hợp tác
hữu nghị với chính những người lãnh đạo và nhân dân TQ đứng đắn tử tế
nhân hậu, nhìn xa trông rộng..