Ls Trần Hồng Phong
Mỗi năm cứ đến tháng 2, tháng 3, mỗi người Việt Nam không thể không
nhớ về hai trận chiến với quân Trung Quốc xâm lược: chiến tranh bảo vệ
biên giới phía bắc năm 1979 và trận đánh ở Trường Sa, tại 3 đảo Len Đao,
Cô Lin và Gạc Ma. Mà kết quả là chúng ta đã mất Gạc Ma vào tay Trung
Quốc, dù các chiến sỹ hải quân Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh vô cùng
dũng cảm.
Lịch sử Việt Nam từ khi Đảng cộng sản nắm quyền lãnh đạo đất nước,
sự kiện mất lãnh thổ (đảo Gạc Ma) là điều chưa từng xảy ra trước đó
(không kể sự kiện Trung Quốc bất ngờ đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, trong
thời kỳ chính quyền Miền Nam quản lý). Trong suốt khoảng 1.000 năm sau
khi thoát khỏi ách đô hộ của giặc phương Bắc, Việt Nam chỉ có mở mang bờ
cõi. Chứ chưa bao giờ bị mất lãnh thổ.
Tôi đã đọc nhiều bài viết, xem nhiều hình ảnh về trận đánh ở đảo
Gạc Ma sáng ngày 14-3-1988. Như mọi người VN, tôi tự hào và hết sức xúc
động, nhưng cũng luôn cảm thấy xôn xang khi thấy hình ảnh các chiến sỹ
của chúng ta trên đảo Gạc Ma, tay nắm chặt tay nhau thành một hàng dài,
nước biển ngập ngang bụng, quyết giữ lá cờ Tổ quốc và lần lượt gục ngã
trước những loạt đạn đại liên tàn bạo của bọn Trung Quốc từ tàu chiến
bắn vào.
Một câu hỏi không thể không đặt ra và cũng không phải của riêng
tôi: tại sao các chiến sỹ của ta không bắn trả vào kẻ thù, nhất là khi
chúng đã nã đạn vào ta trước và đang tấn công lên bờ, chiếm đảo Gạc Ma?
Tôi tin chắc rằng bộ đội ta không bắn trả hoàn toàn không phải vì
không có vũ khí trong tay, hay sợ hãi. Mà nhiều người nói rằng sở dĩ bộ
đội ta không bắn trả vì các anh được lệnh không được nổ súng (!?). Thực
hư của việc này chưa bao giờ được làm sáng tỏ.
Theo một nguyên tắc thông thường, dù không hiếu chiến, nhưng chúng
ta không thể sợ hãi và đặc biệt không thể không đánh trả, không nổ súng
khi kẻ thù tấn công xâm lược lãnh thổ nước ta. Trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ
Quốc, việc đấu tranh trên bàn ngoại giao thì không có tiếng súng, nhưng
trên chiến trường không thể không đánh trả, không nổ súng. Nếu không,
thì chẳng nước nào cần có quân đội, cần sản xuất hay trang bị vũ khí làm
gì.
Từ xưa người Việt đã có câu “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Năm
1946, trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
kêu gọi “Ai có súng cầm súng, ai có gươm cầm gươm, không có gươm thì
dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu
nước. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.”
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc năm 1979, quân và
dân ta nếu không đánh trả, không bắn vào lũ xâm lược thì liệu có đuổi
chúng ra khỏi biên giới hay không?
Tôi không nói nếu bộ đội ta nổ súng thì sẽ bảo vệ được đảo Gạc Ma.
Nhưng nếu quả thực có người nào đó đã chỉ đạo bộ đội không được nổ súng
kể cả khi giặc đã bắn và tiến công chiếm đảo, thì cần phải xem xét, làm
sáng tỏ tính hợp lý hay bất hợp lý của mệnh lệnh này.
Thời điểm đó, đại tướng Lê Đức Anh đang là Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
Vậy, ông có biết hay có liên quan gì đến việc chỉ đạo bộ đội không bắn
trả quân Trung Quốc xâm lược tại đảo Gạc Ma ngày 14-3-1988 hay không?
Theo quan điểm của tôi, bất luận thế nào, thì việc mất đảo Gạc Ma
vào tay Trung Quốc rõ ràng là một thất bại, ít nhất về mặt quân sự. Việc
mất Gạc Ma trên thực tế đã làm thay đổi, tạo ra một cục diện hoàn toàn
mới về bố trí lực lượng, ảnh hưởng đến chiến thuật, chiến lược bảo vệ
lãnh thổ tại biển Đông và khu vực quần đảo Trường Sa nói riêng.
Trung Quốc từ chỗ không có gì đã có được một “chiến hạm nổi” cắm
ngay giữa và chen vào khu vực lãnh thổ của Việt Nam. Từ đó, dẫn đến việc
Trung Quốc có thể dễ dàng hơn rất nhiều trong việc đưa tàu chiến vào
khu vực hoặc mở rộng quy mô quân sự tại khu vực này. Lấy ngay Hoàng Sa
làm ví dụ. Nay từ chỗ là của Việt Nam, chỉ trong một thời gian ngắn
Trung Quốc đã thành lập thành phố Tam Sa, xây dựng sân bay, hải cảng ở
đây – trực tiếp đe dọa đến an ninh, quyền lợi kinh tế biển của dân tộc
ta.
Việc mất đảo Gạc Ma có thể xem là một thất bại về mặt quân sự hay
không? Nếu vậy, sử sách đã ghi nhận gì về thất bại này? Bài học kinh
nghiệm nào được rút ra?
Sở dĩ tôi đặt vấn đề như vậy, là vì trong sách giáo khoa lịch sử
của Việt Nam hiện nay, hầu hết các trận đánh thắng của quân đội ta, dù
quy mô và mức độ ác liệt, hay thậm chí là ý nghĩa lịch sử không bằng
trận Gạc Ma, nhưng đều được phân tích, chỉ ra nguyên nhân thắng lợi, ý
nghĩa và bài học kinh nghiệm (do tài lãnh đạo của Đảng, tinh thần chiến
đấu dũng cảm, khối đoàn kết quân dân …vv). Vậy trận Gạc Ma thì sao?
Suốt 26 năm qua, chưa bao giờ thấy Đảng và Nhà nước nói một lời xin
lỗi hay nhận trách nhiệm về việc mất Gạc Ma. Theo tôi, ít nhất là Bộ
trưởng quốc phòng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc mất đảo
Gạc Ma.
Mới đây đầu tháng 3-2014, tôi có đọc bài báo “Lời hứa của tướng Lê
Đức Anh ở Trường Sa lớn” đăng trên báo điện tử Vietnamnet. Theo đó, được
biết năm 1988, đại tướng Lê Đức Anh có chuyến thị sát tại quần đảo
Trường Sa, dự lễ kỷ niệm 33 năm ngày truyền thống của Quân chủng Hải
quân Việt Nam tại đảo Trường Sa lớn. Tại đó, đại tướng Lê Đức Anh đã có
bài phát biểu khá đặc biệt. Nói đặc biệt là bởi vì ngoài việc động viên
và kêu gọi bộ đội kiên quyết bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ - điều
hiển nhiên tất yếu, thì tướng Lê Đức Anh đã dành rất nhiều câu chữ (hơn ¼
bài phát biểu) để ca ngợi Trung Quốc! Cụ thể đại tướng Lê Đức Anh đã
phát biểu như dưới đây:
“Trong những năm 50 và những năm 60 quan hệ giữa Việt Nam và
Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta
trong những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và hiệu quả. Nhân dân
Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân Trung Quốc đã
dành cho mình.
Mặt khác, thắng lợi của chúng ta cũng đã góp phần đáng kể phá vỡ
sự bao vây của đế quốc Mỹ đối với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Năm 1976, Đoàn đại biểu cao cấp của Đảng và Nhà nước ta đi thăm
và cảm ơn các nước và bầu bạn trên thế giới đã ủng hộ và giúp đỡ Việt
Nam đánh thắng đế quốc Mỹ. Tới Trung Quốc, các đồng chí lãnh đạo của
Đảng ta đã cảm ơn sự giúp đỡ to lớn của Trung Quốc đối với sự nghiệp
chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, thì người lãnh đạo cao nhất của Trung
Quốc lúc bấy giờ đã nói: Trung Quốc cảm ơn Việt Nam, chính nhờ Việt Nam
chống Mỹ mà Tổng thống Mỹ đã phải thân hành đến Trung Quốc để cầu thân
với Trung Quốc".
“Nói tóm lại cả hai nước đã giúp đỡ lẫn nhau trên nhiều lĩnh
vực, với tinh thần anh em sâu đậm. Chúng ta đinh ninh rằng tình sâu
nghĩa nặng đó sẽ kéo dài mãi mãi và nhất định nó sẽ xóa nhòa, đi đến xóa
hẳn trong ký ức của dân tộc Việt Nam những tội lỗi mà các triều đại
phong kiến Trung Quốc đã gây đau khổ cho dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn
năm đô hộ”.
“Chúng ta nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa
nhân dân hai nước Việt - Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu
nghị giữa hai nước”.
Nếu như bài phát biểu đó vào thời điểm sau những năm 1990, sau khi
Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, thì không có gì để
nói.
Nhưng tại thời điểm năm 1988 đó, quan hệ giữa Việt Nam với Trung
Quốc vẫn còn khá căng thẳng, dư âm của cuộc chiến tranh biên giới phía
bắc năm 1979 vẫn còn rất lớn. Khi đó, tôi đang học ở một trường đại học
tại TP.HCM, tôi còn nhớ rất rõ nội dung bài học chính trị quân sự cho
sinh viên xác định rõ “Trung Quốc là kẻ thù trước mắt” của Việt Nam.
(Điều này hoàn toàn có thể kiểm chứng qua báo chí giai đoạn này).
Chính vì vậy, theo tôi việc Bộ trưởng Bộ quốc phòng Việt Nam hết
lời khen ngợi Trung Quốc tại thời điểm đầu năm 1988 là bất thường. Hay
ít nhất là không phù hợp, một cái nhìn chủ quan và phiến diện về Trung
Quốc. Thực tế cho thấy ngay sau đó Trung Quốc đã tấn công và chiếm đảo
Gạc Ma của chúng ta. (Nếu so sánh với lời của đại tướng Võ Nguyên Giáp,
Bộ trưởng Bộ quốc phòng năm 1979, kêu gọi và phản đối quân Trung Quốc
xâm lược thì thật là khác nhau một trời một vực).
Thiết nghĩ lịch sử cần được ghi nhận một cách chính xác và khách
quan. Chính nhờ sự chính xác của lịch sử, mà ngày nay chúng ta biết đời
nhà Trần có chuyện đại thần Trần Ích Tắc phản bội theo giặc, có chuyện
vua Trần triệu tập Hội nghị Bình Than mời bô lão cả nước tham nghị việc
hòa hay chiến với giặc Nguyên. Hay chuyện vua Lê Chiêu Thống vì muốn giữ
ngai vàng đã rước giặc Thanh vào Thăng Long…
Lịch sử và sự phát triển của bất kỳ dân tộc nào, hiển nhiên sẽ luôn
có những sự việc mà hậu thế sẽ đánh giá là “đúng”, hay “sai”, đối với
cá nhân thì là “công” hay “tội”.
Hiện nay, Trung Quốc đã và đang gây ra những ảnh hưởng có thể nói
là rất mạnh và toàn diện vào đất nước Việt Nam. Người “lao động” Trung
Quốc ngày càng nhiều và có mặt khắp nơi trên đất nước ta, kể cả ở những
nơi có vị trí nhạy cảm, xung yếu về quân sự, gây nên mối lo ngại về việc
hình thành những làng, những khu phố Trung Quốc trong tương lai. Hãy
hình dung như trường hợp bán đảo Crimea ở Ukraine những ngày qua, khi
người dân nơi đây với số đông là người gốc Nga bỗng dưng đòi tách ra
khỏi Ukraine, sáp nhập vào Nga. Và Nga thì đem quân tới chiếm đóng,
nhiệt liệt ủng hộ những người ly khai. Nhiều người Việt Nam đã công khai
bày tỏ sự lo ngại.
Thực tế, ngay tại Việt Nam từ sau năm 1975 cũng đã từng có ít nhất 2
cuộc “đấu tranh” hay “bạo động” của người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
đòi thành lập nhà nước độc lập. Về lý thuyết, pháp luật cho phép người
dân bầu ra người lãnh đạo tại địa phương, ngược lại lãnh đạo có nhiệm vụ
đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho những người bầu ra mình. Gần đây, chúng
ta thấy có chuyện “tranh cãi” giữa Quảng Nam và Đà Nẵng về chuyện thủy
điện, giữa Đồng Nai với Bộ TNMT về chuyện đường vận chuyển bô xít. Đó là
những minh họa rất rõ ràng về sự tiềm ẩn xung đột quyền lợi mang tính
sắc tộc, địa phương.
Trong khi chúng ta cần nhớ rằng Trung Quốc luôn là nước gây căng
thẳng và có chiến tranh biên giới với rất nhiều nước láng giềng như với
Liên Xô (những năm 1960), Ấn Độ, hay Việt Nam (năm 1979)… Và tới nay
chưa bao giờ ngưng căng thẳng biên giới với Nga, Ấn Độ.
Trong sự kiện mất đảo Gạc Ma, liệu có bao giờ những người có trách nhiệm cao nhất của đất nước tự hỏi vì sao? ai có lỗi gì?