Nguyễn Đức Mậu
Nguyễn Trường Tộ đề nghị, điều trần, luận thuyết mà
không hoạt động xã hội, ông hướng đến bề trên để thuyết phục
thay đổi mà không tạo ra phản ứng cộng hưởng từ xã hội, không
hoạt động xã hội như Fukuzawa. Nguyễn Trường Tộ hướng đến
thuyết phục bề trên và không khai dân trí, không hướng đến chủ
thể của xã hội mới, con người, dân quyền, nhân quyền.
Nửa cuối thế kỉ XIX, Việt Nam nói riêng và phương Đông nói
chung, đứng trước thực tế mới, đó là khả năng xâm lược của
phương Tây. Nhật Bản và Việt Nam, trong hoàn cảnh đó, cùng đều
xuất hiện những nhà cải cách mà tiêu biểu là Fukuzawa Yukichi
(1835-1901) và Nguyễn Trường Tộ (1830?-1871). Và với xuất phát
điểm gần nhau nhưng hai nước đồng văn, đồng chủng này, sau mấy
chục năm, đứng ở hai cực phát triển và lạc hậu, điều gì tạo
nên những kết quả như vậy, chắc sâu xa trong đó phần nào là
kết quả của những cách nghĩ khác nhau mà biểu hiện rất rõ
là ở những nhà cải cách.
Bài viết không so sánh hơn, kém mà mục đích nhằm chỉ ra
những cách nghĩ khác, và từ đấy, mong muốn góp phần giải
thích sự trì trệ của Việt Nam có lí do hay không trong tư duy,
trong hành động lịch sử của mình. Nhưng trong phạm vi hẹp, lại
rút gọn vào một vài điểm, là cách tiếp nhận cái gì, nhận
thức cái gì khi hai nhà tư tưởng Việt Nam và Nhật tiếp xúc
với phương Tây.
Khỏi phải khẳng định Nguyễn Trường Tộ là người yêu nước,
rất yêu nước, càng không cần thiết xác quyết ông là người sắc
sảo, thông kim bác cổ, nhìn ra được những vấn đề mới, có tính
đột phá, so với những nhận thức có tính quen thuộc với những
trí thức đương thời, bởi những điều đó hiển thị hiển nhiên
trong các văn bản mà ông để lại. Nguyễn Trường Tộ tìm hiểu và
có những ý kiến trên rất nhiều vấn đề, hầu như khi nói đến
một vấn đề gì đó ông cũng nói đến phương Tây. Nếu thống kê số
lượng những vấn đề mà Nguyễn Trường Tộ đề cập, rất cụ thể
và biểu hiện đã được suy nghĩ, thì sẽ thấy năng lực tư duy và
nhu cầu mạnh mẽ hướng đến một thay đổi cho đất nước.
Điều kiện thực tế, sự chế định của thực tế lịch sử như
đất nước đang đứng trước nguy cơ còn mất, hoàn cảnh bản thân
là người thiên chúa giáo không dễ được triều đình tin cậy và
phần nào đó tính chất của điều trần nhằm thuyết phục những
việc trước mắt đã quy định ít nhiều nội dung điều trần, nhưng
từ suy nghĩ vụ việc cụ thể đến dự liệu các khả năng tương lai
đất nước, đều thể hiện tầm nhìn, tính hệ thống, khả năng
nhận thức trước thực tế mới của Nguyễn Trường Tộ.
Cái chúng tôi nói đến là cách nghĩ của hai ông phương Đông
trước thực tế phương Tây, những cái gì ông quan tâm và quan tâm
vì lí do gì, vì nhu cầu gấp gáp trước mắt, tính thực tế,
đáp ứng thực tế hay lí do lựa chọn, tính mục đích hay tầm
vóc của các tiếp nhận. Trước một hiện tượng dị kỉ, dị biệt
thì chủ thể tiếp nhận phản ứng ra sao? Phê phán hay tiếp nhận
ngay, băn khoăn tìm hiểu hay ngay lập tức lấy, bỏ, hay tìm cái
gì trong cái khác đó để rút ra cái có lợi hay không lợi cho
mục đích của mình.
Nguyễn Trường Tộ đề nghị, điều trần, luận thuyết mà không
hoạt động xã hội, ông hướng đến bề trên để thuyết phục thay
đổi mà không tạo ra phản ứng cộng hưởng từ xã hội, không hoạt
động xã hội như Fukuzawa. Nguyễn Trường Tộ hướng đến thuyết
phục bề trên và không khai dân trí, không hướng đến chủ thể của
xã hội mới, con người, dân quyền, nhân quyền.
Những điểm nhận thức dưới đây phác thảo về hai cách nhìn đó.
1. Cách hiểu “thế” và “lực” có được do kĩ thuật và cách hiểu văn minh
Nói đến nhận thức về phương Tây, Fukuzawa và Nguyễn Trường
Tộ, có điểm chung là rải ra trên từng mặt, từng điểm, từng bộ
phận, về số lượng những điều được quan tâm là khá đa dạng,
nhiều chỗ quan tâm giống nhau, cách nhưng nhìn tổng quát thì
lại khác nhau. Cách thức, mong đất nước đuổi kịp, sánh vai
phương Tây là như nhau, phê phán nền giáo dục Nho giáo cũng có
chỗ giống nhau, và đều cùng có chống Nho giáo, thiên mệnh. Đi
sâu vào chi tiết có thể cho thấy rõ hơn đặc điểm của các cách
nghĩ khác và giống nhau.
Trong các cuộc tranh luận gay gắt nửa cuối thể kỉ XIX, bao
gồm các vấn đề duy tân hay thủ cựu, chính đạo hay tà thuyết,
chiến hay hòa thì Nguyễn Trường Tộ là người tiêu biểu cho đề
xuất cải cách, duy tân.
Vậy duy tân thì phương Tây - được xem như một định hướng giá
trị - sẽ được hiểu như thế nào, bao gồm cắt nghĩa, giải thích
về những ưu việt của họ. Và quan trọng hơn, là cách lựa chọn
học cái gì để đổi mới và mục đích hướng tới để làm gì,
“phú quốc, cường binh” (hướng đến nước giàu, binh mạnh hơn là
hướng đến phát triển xã hội và thể chế dân chủ) hay tìm hiểu
cái cốt lõi để thay đổi căn bản cái “cơ sở kinh tế xã hội tạo nên chế độ chuyên chế” [1].
Nguyễn Trưởng Tộ nhìn phương Tây theo các cách nhìn sự vật
vốn đã có trong truyền thống tư duy phương Đông và từng bộ phận
của phương Tây được tháo rời để kết hợp với các yếu tố bản
địa. Ông không cho thấy cái gì khác khi nhận xét: “Trộm nghĩ
việc trong thiên hạ chỉ có “thế” mà thôi. Chữ “ thế” là nói
bao gồm cả thiên thời nhân sự. Cho nên người biết rõ “thế” thì
không trái thời, không mất thời, không hại người, không hỏng
việc” (Di thảo số 1) [2]. Thiên hạ, cái khái niệm gốc
Hán này, đến bấy giờ, đứng trước một đối tượng mới là
phương Tây được dùng lại, và Đông hay Tây, hai nền văn minh cách
biệt, đều được xem tất tật như nhau và “chỉ có “thế” mà thôi”.
Cách nhìn “tung hoành, phân hợp” cũng như vậy, chúng cũng được thiên di từ cái phương Đông sang cái phương Tây: “Hiện
nay tôi muốn đi qua kinh đô nước Anh. Nhân nước Anh có mở đại
hội cách trí, họ thường sai người đi các nước đến các đầu
phố phỏng vấn về tình hình người phương Tây giao tế với các
nước khác như thế nào (Việc này có tương quan đến đại thế tung
hoành, phân hợp của các nước)” (Di thảo số 4). Trong một bài khác, bài Trần tình, cho biết rằng cái thế tung hoành, phân hợp được Nguyễn Trường Tộ thực sự lưu tâm hàng đầu: “...không
môn nào tôi không khảo cứu, nhất là để ý nghiên cứu về sự
thế dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ” (Di thảo số 3). Thế
giới được gọi là thiên hạ, được nhìn theo cách tan hợp, tung
hoành. Như thế trong tư duy của Nguyễn Trường Tộ đã sẵn một
cách nhìn cho mọi đối tượng mặc dù giữa chúng có sự khác
biệt rất lớn.
Trong Thoát Á luận Fukuzawa có một khẳng định biểu
hiện suy nghĩ về sự khác biệt có tính đối lập, không chấp
nhận chung sống hay dung hợp của hai hệ thống cũ - mới: “Nền văn minh hiện đại không thể song song tồn tại được cùng với truyền thống Nhật Bản”
và cái cản trở sự thâm nhập của nền văn minh này nằm ngay
trong cơ cấu quyền lực và cách tư duy của bộ máy chính phủ cũ
kĩ, già nua, loại bộ máy mà Nguyễn Trường Tộ ngày đêm điều
trần và đặt tất cả niềm tin, hy vọng (Di thảo số 13).
Nguyễn Trường Tộ không nhìn thấy vai trò xã hội, và không thấy
xã hội chuyên chế tập trung quyền lực vào bộ máy của nó, xã
hội hiện đại là tam quyền phân lập, đối lập với cái ông theo
đuổi. Ngôi vua và chức quan được coi là bản vị: “ngôi vua là quý, chức quan là trọng” (Di thảo số 13).
Có thể xã hội Việt Nam thời Nguyễn Trường Tộ chưa thành yếu
tố quan trọng, chỉ có quan hệ nhà nước với thần dân, và vì
vậy chưa thôi thúc tư duy của ông về xã hội.
Nhìn nhận phương Tây theo cách nhìn tung hoành, mặt khác cũng dùng tung hoành như một biện pháp: “ Trong
tờ bẩm trước, tôi có nói nên dùng chước tung hoành, là muốn
thi hành trong tình thế thơi thả, chớ không thể tung ra thi hành
trong tình thế cấp bách. Nhưng khi đã đến nước họ rồi, thì
hãy xem cơ hội có thể làm được thì làm, không thì thôi” (Di thảo số 30).
Nhưng đó là những cách vốn được hình thành sẵn trong mục
đích tìm cách đối phó với đối phương, nó được tính đến khi
cần một cách thuyết phục đối phương trong cuộc bảo vệ đất
nước. Và như vậy, có thể phần nào tâm lí cấp bách không có
lí do nhường chỗ cho một ý thức tìm hiểu một cách sâu xa hơn
những cái cốt lõi làm nên sức mạnh phương Tây.
Sức mạnh mà phương Tây có được, trong nhận thức chung, không
riêng gì Nguyễn Trường Tộ, đều cho rằng từ kĩ thuật, từ các
khẩu hiệu kiểu: “Hòa hồn Dương tài” (Tinh thần Nhật và kĩ thuật Tây Âu), “Trung thể Tây dụng” (Thể chất Trung Hoa và công dụng phương Tây), “Đông đạo Tây khí”
(Đạo lý phương Đông và thực hành phương Tây). Nhưng ngay Fukuzawa
cũng đã cho thấy ông nhìn tính ưu việt của phương Tây là văn minh, không đơn thuần là kỹ thuật.
Nguyễn Trường Tộ nhìn nhận sức mạnh phương Tây - chủ yếu
hay quan trọng nhất - là do sức mạnh kĩ xảo, chế tạo khí cụ
và do bắt chước phương Đông mà phát triển lên: “Người Tây vì
loạn lạc đã lâu nay muốn trị yên nên đã bắt chước phương pháp
đó chế súng điểu thương, để chống lại, và những thứ kỳ xảo
khác đều lấy phương Đông làm kiểu mẫu. Về sau, việc học thuật,
việc chế tạo những khí cụ ngày càng được tinh vi. Học huật
được tinh vi thì sinh ra kĩ xảo. Kỹ xảo đến cực điểm thì trở
nên mạnh và đã làm thay đổi hẳn cái hèn kém mông muội trước
kia. Cho đến thời Minh bước tiến Âu Tây ngày một lên cao vùn
vụt, đến nỗi không có chỗ để thử cái tài dũng của họ nữa” (Di thảo số 5).
Cách hiểu và giải thích này về sự phát triển của phương Tây
cũng có thể chi phối khá nhiều đến cách mà ông hướng đến cải
cách cho đất nước, và còn có thể cản trở sự băn khoăn tìm
hiểu các nguyên nhân sâu xa về xã hội, về thể chế tạo nên sự
phát triển đó.
Không chỉ nói cái sức mạnh phương Tây nằm ở kỹ thuật, kĩ
xảo mà ông còn diễn giải rằng nó có nguồn gốc đầy tự hào ở
phương Đông, và phương Tây do biết cách học phương Đông mà phát
triển: “ các nước phương Đông là ông tổ của trăm nghề,… những
cái khôn khéo của người phương Tây ngày nay chính là lượm lặt
được cái dư thừa của phương Đông mình ngày xưa” (Di thảo số 5).
Nguyễn Trường Tộ lại giải thích sự tụt hậu của phương Đông so
với phương Tây do bản tính an nhàn, không thích đổi mới, tự
mãn, tự túc của người phương Đông. Lời giải thích sắc sảo này
cũng chỉ mới nói đến nguyên nhân trực tiếp từ chủ thể nhận
thức mà các nguyên nhân khác, như sự hỗ trợ có tính quyết
định đến con người từ thể chế xã hội, nguồn gốc giáo dục,..
chưa thành yếu tố để đưa ra nhận thức.
Nếu như Nguyễn Trường Tộ nhìn sức mạnh phương Tây từ sức
mạnh vũ khí, kĩ thuật thì Fukuzawa lại khác, ông nhìn phương
tây là “sức mạnh của nền văn minh” và “chúng ta không thể nào chống lại sức mạnh dữ dội của nó” (Thoát Á luận). Văn minh là gì, nội dung của nó được ông cắt nghĩa cụ thể: “Văn
minh, trong nghĩa rộng không chỉ là những tiện nghi hàng ngày đáp ứng
nhu cầu của con người mà còn là việc hoàn thiện các kiến thức và trau
dồi đạo đức để nâng cuộc sống của con người lên một tầm cao mới [....].
[Như vậy] văn minh bao gồm cả những tiện nghi vật chất và ý thức. Cuối
cùng, văn minh có nghĩa là sự tiến bộ cả về kiến thức và đạo đức của con
người” [3]. Cách giải thích nội dung khái niệm văn minh,
cách lí giải khái niệm, cách tìm hiểu tổng thể như thế về
sự tiến bộ xã hội, tiến bộ về mặt xã hội, là điều không
thấy Nguyễn Trường Tộ quan tâm. Đây là chỗ khác nhau khá căn
bản trong cách nghĩ của hai ông khi tiếp nhận, phân tích phương
Tây và cái cốt lõi làm nên sức mạnh của nó. Độc lập dân tộc
đặt cùng, đặt trước hay đặt sau tiến bộ xã hội là câu chuyện
về sau của những nhà cải cách Việt Nam, Nguyễn Trường Tộ hình
như chưa đặt vấn đề như vậy.
Fukuzawa nhìn phương Tây thuộc một nền văn minh khác, trong đó
ông nhìn nó với cơ cấu xã hội và sự phát triển của các lý
thuyết: “Trong văn minh phương Tây, cơ cấu xã hội bao gồm nhiều lý
thuyết khác nhau, phát triển đồng thời, tiệm cận dần đến nhau và cuối
cùng hợp nhất thành một nền văn minh. Chính quá trình này hình thành nên
sự tự do và độc lập” và đi đến cách tiếp thu có hệ thống những gì phương Tây đã có: “Chúng ta cần làm những gì mà người phương Tây đã làm" [4]. Nhìn thấy xã hội, nhìn thấy cái cơ cấu xã hội “bao gồm nhiều lý thuyết khác nhau”
là cách nhìn mới, cách quan tâm lý thuyết cũng là cách mà
chúng ta không thấy trong các văn bản Nguyễn Trường Tộ để lại.
Cách tiếp nhận hệ thống, hướng đến nhận thức, giải thích
đối tượng từ tính lí thuyết, nó không chỉ là sự nhận thức
và lựa chọn theo hướng thêm, bớt, lấy bỏ các bộ phận tách
rời.
Từ những nhận thức mà Fukuzawa đã có, ông được nhận xét rằng: “ông đã tìm hiểu được những nền tảng căn bản của xã hội hiện đại đang phát triển ở phương Tây”.
Hiểu biết cái nền tảng [5] chứ không phải con số cộng lại
của tất cả các hiểu biết từ nhiều lĩnh vực. Fukuzawa nói
rằng: “Những điều viết về các ngành hóa học, vật lí, về
máy móc, điện năng, hơi nước, in ấn hay các ngành công nghiệp
thì không phải hỏi chi li từng chút một. Tôi không phải chuyên
gia về ngành đó…”. Trong khi đó Nguyễn Trường Tộ thì quan
tâm không ít những kĩ thuật của nhiều ngành để có thể làm
theo được, cũng cách quan tâm chi tiết kiểu này chúng ta thấy
trong Tây hành nhật kí của Phạm Phú Thứ. Cái cách quan tâm cũng thể hiện cách nghĩ của hai người. Fukuzawa
hướng tới tự do, bình đẳng, cá nhân độc lập và quốc gia độc
lập, phát triển xã hội dân sự. Đó cũng là nền tảng của một
nhà nước hiện đại.
Từ chỗ nhìn ra những cơ sở tư tưởng làm nên sức mạnh nền
văn minh phương Tây, Fukuzawa hướng đến một mục đích đầy bản
lĩnh là cùng phát triển theo nền văn minh ấy, cùng nỗ lực xây
dựng và hưởng thành quả của nền văn minh ấy (Thoát Á luận).
Nhận thức được những cái căn bản làm nên nền văn minh, trong
một bức thư viết cho người bạn ở quê nhà, ông nói rằng điều
cấp thiết nhất là đào tạo tài năng trẻ chứ không phải là mua
sắm vũ khí và giáo dục là hoạt động mà ông lựa chọn. Nhưng
giáo dục cũng không phải là sự kế thừa cái cũ, tiếp thu cái
mới mà phải đoạn tuyệt hẳn nền giáo dục cũ, cha đẻ và là
thủ phạm của mọi lạc hậu, trì trệ.
Cách nhận thức về cái cốt lõi của sức mạnh phương Tây và
thái độ, cách thức tiếp nhận nó ảnh hưởng có tính quyết
định đến các hành động, hoạt động cụ thể của hai ông, Nguyễn
Trường Tộ không mệt mỏi điều trần với triều đình, hướng về
triều đình để thuyết phục, còn Fukuzawa lại đòi hỏi hủy bỏ
chính phủ đương thời vì nó không thể chấp nhận nền văn minh,
ông hướng đến những hoạt động hình thành xã hội hiện đại,
hình thành nhà nước hiện đại- đó là cuộc cách mạng, không
chỉ là duy tân hay cải cách.
Nguyễn Trường Tộ cũng nói đến luật pháp với việc phân
quyền kết án cho các quan, nhà vua chỉ có quyền ân xá, không
có quyền kết án. Nhưng xuất phát của yêu cầu luật pháp này
cũng nhằm cho dân chúng thấy “đạo công bằng”, “đạo nhân ái” (Tế cấp bát điều) mà không được nhìn từ cơ cấu quyền lực xã hội.
2. Cách nhìn nhận các thể chế chính trị – thái độ trước cái khác, cái dị kỉ trong nhận thức
Chúng ta không có cùng loại văn bản để xem xét, vì văn bản
của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta dùng là điều trần, trong khi
văn bản Fukuzawa lại là tự truyện, hồi kí, luận thuyết. Mỗi
loại văn bản hướng theo một mục đích khác nhau. Nhưng dẫu vậy,
nội dung của các yếu tố, các phần chúng ta sẽ sử dụng cũng
cho phép nói đến một cách lựa chọn, hay một thái độ.
Việc nói về việc hiểu được chính trị, xã hội phương Tây
của hai ông đã có những khác biệt trong cách nghĩ và cách tìm
hiểu một đối tượng mới.
Nguyễn Trường Tộ luôn nói mọi cứ như đã rõ ràng, không
thấy có nào chỗ nói như Fukuzawa rằng không biết đã hiểu đúng
hay sai, cách tìm hiểu để khỏi sai khi tiếp xúc với một đối
tượng cơ cấu quyền lực, xã hội, chính trị mới hoàn toàn.
Nhiều điều chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ giải thích cái lợi
và không nói cái sâu xa của nó.
Nguyễn Trường Tộ nhìn nhận các Viện Thứ dân và Viện Công
hầu ở các khía cạnh thế lực, quyền lực và sử dụng sự hiểu
biết này để toan tính mọi việc: “Còn sự thế nước Pháp thì
Viện Công hầu và Viện Thứ dân thế lực ngang nhau. Trong khi đó
Viện Công hầuthì mong có chuyện để lập công, còn Viện Thứ dân
thì lấy việc dàn xếp cho yên nước để làm công. Cho nên hai bên
đi đến khiên chế nhau để đi đến chỗ giải quyết thỏa đáng” (Di thảo số 35). Việc họ “khiên chế nhau” để “giải quyết thỏa đáng”
là một đánh giá, một thông tin tích cực, nhưng không thấy ông
nói gì thêm về nó như một mẫu hình cần thiết để tiếp tục
tìm hiểu.
Trong một di thảo khác, Nguyễn Trường Tộ còn giải thích và bày kế: “Vì
nước họ có hai đảng: Một là Viện Công hầu, một là Viện Thứ
dân; Viện Công hầu thì hay đợ bỡ ý vua, còn Viện Thứ dân thì
cho việc ấy là ức hiếp người ta… Nay ta muốn mưu việc cũng
phải ngầm thông với Viện này mới được…” (Di thảo số 4).
Cách nhìn thông một vài biểu hiện cụ thể “đợ bỡ” hay “ức
hiếp” như vậy có thể chỉ cho thấy hành vi cụ thể rồi kết
luận cho cả tổ chức mà không cho phép hướng đến hiểu tính
chất, chức năng, mục đích của loại tổ chức này.
Nguyễn Trường Tộ còn “tính kế” (chữ Nguyễn Trường Tộ
thường dùng) cụ thể là thông qua con trai của Viện trưởng Viện
Thứ dân để gặp vị Viện trưởng này để tác động nhờ “chống cãi với Viện Công hầu để bàn bạc châm chước cho ta”, “ám thông mọi việc với Viện Thứ dân”.
Như vậy việc tìm hiểu tổ chức này để hiểu “thế lực” và tìm
cách quan hệ chính trị ngầm. Mục đích tìm này có thể dẫn
đến sử dụng nó với nhu cầu trước mắt và không hướng đến hiểu
sâu xa hơn cái tổ chức này từ lí do xã hội, chính trị của
nó. Văn bản với mấy câu ngắn trong di thảo không cho ta hiểu gì
thêm về các suy nghĩ của Nguyễn Trường Tộ, nhưng cũng cho thấy
ông nhìn hiện tượng khác Fukuzawa. Nguyễn Trường Tộ ráo riết
tìm hiểu cho mục đích cụ thể và trước mắt của triều đình,
phục vụ cho triều đình, điều mà ông nỗ lực, và như vậy, thì
có thể ông không hướng đến nó như một nhân tố tích cực cho
phát triển xã hội - là cái mà Fukuzawa cho là mục đích.
Cái khác khá quan trọng là Nguyễn Trường Tộ sẵn sàng có
lời giải thích ngay, không băn khoăn về sự hiểu của mình xác
đáng đến đâu.
Fukuzawa lại khác, ông nói cách ông vừa đọc, vừa tra từ
điển nhưng hay nhất là hỏi người bản địa, sau khi đã tra cứu
sách vở mà chưa tìm ra, và nhất là tìm nhân vật tầm cỡ để
dốc sức tìm hiểu, hỏi han, ghi chép [6]. Cách làm việc này là
cách khoa học, tránh hiểu sai do chủ quan, tuy vậy có nhiều
chuyện như ông tự thú: “Về chính trị,... tôi đã được gặp
nhiều người và nghe nhiều chuyện, nhưng do không nắm được căn
nguyên, nguồn gốc sự việc, nên có nghe cũng không hiểu hết” [7]. Ông kể cụ thể liên quan đến việc đi đến nhận thức đối với một đối tượng xa lạ, khác cái truyền thống: “…
Lại có một thứ người ta gọi là Bank (Ngân hàng), lại nẩy sinh
ra vấn đề cần tìm hiểu xem dòng lưu chuyển chi thu tiền tệ như
thế nào? Họ đang tiến hành xây dựng Luật bưu chính viến thông
thì phải biết luật đó được đưa ra với mục đích gì?… Luật
trưng quân tựu trung lấy mục đích gì làm căn bản? Những chuyện
đó tôi hoàn toàn không hiểu. Cả về Luật bầu cử là thế nào,
nghị viện là cơ quan gì thì họ chỉ cười, vì tôi hỏi điều mà
mọi người đã biết rõ. Nhưng đằng này tôi không hiểu và cũng
không biết suy đoán ra sao.
Về các đảng phái thì hình như có Đảng Bảo thủ, Đảng
Tự do. Hai đảng này luôn cạnh tranh gay gắt, không bên nào chịu
thua kém bên nào. Thế nghĩa là thế nào? Tại sao trong một xã
hội yên bình như vậy mà các chính trị gia lại phải ra sức
tranh cãi với nhau? Thật không thể hiểu nổi. Thế này thì gay go
quá. Họ đang làm gì thế không biết? Mà lạ thay, những người
là kẻ thù của nhau lại cùng ăn, cùng uống trên một bàn tiệc.
Thật không thể hiểu được. Cho đển khi hiểu được cũng phải vất
vả. Mối liên hệ giữa chuyện này với chuyện kia, dần dần tôi
cũng hiểu ra từng chút, từng chút một, sau đó xâu chuỗi thành
một câu chuyện đầy đủ và tạm cắt nghĩa cũng phải mất đến
năm, mười ngày. Đó là điều lớn nhất của tôi trong chuyến đi
châu Âu” [8]. Nếu thống kê hàng loạt cái quan tâm của Fukuzawa
thì thấy mọi cái nhìn theo hệ thống, và nhiều cái Fukuzawa
quan tâm thì bị Nguyễn Trường Tộ bỏ qua như ngân hàng, dòng lưu
chuyển chi thu tiền tệ, Luật bưu chính viễn thông, Luật trưng
quân, Luật bầu cử, nghị viện - những cái có tính cơ bản của
cơ cấu xã hội hiện đại.
Chưa nói cái mà Fukuzawa quan tâm là cái gì, nó quan yếu hay
không - đó là cách quan tâm, cách tư duy, mà thái độ của ông
trước cái khác, cái không có trong truyền thống tư duy, không
phải là ngay lập tức tìm cách giải thích hay gạt bỏ, mà ông
tìm hiểu để hiểu cho ra, là phải trải qua một quá trình băn
khoăn, suy nghĩ, tra cứu, tìm người giải đáp.
Thái độ băn khoăn tìm hiểu này chúng ta không thấy trong các
thông tin từ Nguyễn Trường Tộ, cũng không thấy trong các ghi
chép của Phạm Phú Thứ trong Tây hành nhật kí. Tất nhiên
ở Nguyễn Trường Tộ thì loại văn thuyết phục của điều trần có
cần thiết phải trưng ra cái băn khoăn vừa nói? Và chúng ta
cũng không thấy trong cả các văn bản Trương Vĩnh Ký, một người
cùng sang Pháp với Phạm Phú Thứ. Cái khuyết thiếu mang tính
chất chung này phải chăng có cùng loại tư duy để ta có thể
dùng để giải thích cho trường hợp Nguyễn Trường Tộ, hay do một
lí do nào đó những người cùng thời Nguyễn Trường Tộ không
viết ra?
Nguyễn Trường Tộ không thay đổi chế độ chính trị - cái cần nhất của công cuộc cải cách.
Chúng ta thấy ông quan tâm đến các thiết chế nhà nước. Ông đề
nghị thành lập bộ Nông nghiệp, bộ Ngoại giao mà trước đây chỉ
có 6 bộ: bộ Binh, Hình, Lại, Lễ, Công, Hộ. Như vậy cái cách
thêm vào chứ không phải thay đổi chính phủ, vì nó không cùng
tồn tại với nền văn minh mới, như Fukuzawa.
Một cái mới thuộc loại cải cách, mang tính phân quyền là
đề nghị Tòa án độc lập với nhà vua, nhà vua chỉ có quyền ân
xá, không có quyền kết án. Sự phân quyền này có ý hướng “một
nhà nước pháp quyền” nhưng lí do của nó mà ông nói đến thì
không phải như vậy. Ông giải thích việc thực hiện luật như thế “để cho dân chúng thấy đạo công bằng” và vua thì “ để tỏ đạo nhân ái”.
Ở đây có một sự thêm, bớt, sự cộng vào giữa cái cũ và cái
mới dù giữa chúng có sự bất tương hợp, hay triệt tiêu nhau
giữa Luật của nhà nước Pháp quyền và Nhà nước quân chủ nho
giáo: “Bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật
nước và những luật mới bổ sung thêm từ Gia Long đến nay. Ai
giỏi luật sẽ được làm quan. Vì luật bao gồm cả kỷ cương, uy
quyền, chính lệnh của quốc gia, trong đó có tam cương ngũ
thường cho đến việc hành chánh của 6 Bộ đều đầy đủ. Quan dùng
luật để trị, dân theo luật để giữ gìn. Bất cứ hình phạt nào
trong nước đều không vượt ra ngoài. Bộ hình xử đoán các vụ
kiện thì chỉ có thăng trật chứ không bị biếm truất. Dù vua,
triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc. Như vậy là
để giúp cho các vị này được thong dong trong việc chấp hành
luật pháp không bị một bó buộc nào cả. Phàm những tội ngũ
hình đều do các vị này xử. Vua cũng không được đoán phạt một
người nào theo ý mình mà không có các chữ ký của các quan
trong Bộ ấy. Làm thế để cho dân chúng thấy rõ đạo công bằng.
Vả lại vua không dự vào những việc ngũ hình để tỏ đạo nhân
ái. Như chế độ xưa vua có “tam hào”(ba lần tha). Bởi vì có tội
phải giết thì đó là quốc dân giết” (Di thảo số 27).
Cái sâu xa của tam quyền phân lập được giải thích theo hướng
cho vua và vì vua, và để cho quan xử được “không bị bó buộc”.
Ông còn liên hệ về sự gần gũi giữa nó với cái đã có trong
chế độ quân chủ nho giáo. Bộ máy hành pháp vẫn không tách
khỏi bộ máy nhà nước, không tồn tại độc lập. Bản thân việc
đề nghị một nội dung xử án và trách nhiệm quyền hạn kiểu như
vậy đã là quá mới và mạnh mẽ, nhưng chưa thấy biểu hiện của
sự tiếp nhận nguyên gốc cái tam quyền phân lập và giải thích
ý nghĩa xã hội, chính trị sâu xa cũng như mục đích của nó.
Cách giải thích một việc xa lạ với tư duy truyền thống,
lại liên hệ, kéo nó về với cái truyền thống như kiểu này
không chỉ xảy ra một lần trong các văn bản Nguyễn Trường Tộ,
và cũng đã thấy rất quen thuộc trong các văn bản khác của
người Việt chúng ta. Nhưng có lẽ đó không chỉ là một cách làm
để sao đạt được mục đích thuyết phục vua, ở đây cũng đã thể
hiện cách hiểu của Nguyễn Trường Tộ.
Phân quyền cũng được thể hiện trong đề nghị giao việc cho
các quan, phải chăng bởi nhằm giảm bớt sự tập quyền của chế
độ quân chủ: “Vua các nước thường giao việc nước cho quan đại
thần để chu du các nước, mở rộng kiến văn, mà không phải bận
tâm việc trong nước nữa” (Di thảo số 13). Nói chuyện
vua “giao việc” để gợi ý một cách làm đáng học để “không phải
bận tâm”, nhưng ông có nhằm vào cái nguyên tắc lập pháp trong
sự “giao việc” này không. Lý do giao việc như vậy được Nguyễn
Trường Tộ giải nghĩa là để chu du các nước, để mở rộng kiến
văn - đây là cách để hấp dẫn vua hay là ông hiểu như thế thật.
Fukuzawa quan niệm phải “tiến hành đại cải cách chính phủ” có quy mô, “rồi cải cách chính trị”, “đặc biệt tiến hành các hoạt động đổi mới nhân tâm và cách suy nghĩ” (Thoát Á luận).
Như vậy các quá trình cải cách tuân thủ theo các bước được
hình dung cụ thể, đó là phải cải cách chính phủ, tiếp theo
là thay đổi chính trị, đổi mới xã hội, như thế khác với cách
làm, cách thay các bộ phận trên một tổng thể cũ như ở Nguyễn
Trường Tộ.
3. Các cách tư duy từ khái niệm cũ, mới - thay đổi hệ khái niệm trước một thực tế nhận thức khác
Các khái niệm của hệ hình tư duy cũ không thể đáp ứng
những nội dung mới, nhưng chúng ta thấy điều này không trở
thành mối quan tâm của rất nhiều nhà cải cách, họ sử dụng
khái niệm mới thuộc kỹ thuật một cách mau lẹ như là những
cái đó đại diện cho cái mới, cho cái hiện đại quan trong nhất.
Không chỉ với Nguyễn Trường Tộ mà ở Phạm Phú Thứ, Trương
Vĩnh Ký cũng thế, dường như không thấy các khái niệm xã hội
mới xuất hiện, nhưng các khái niệm kỹ thuật lại được nhắc
đến nhiều (Quang học, cơ học, hóa học, thực vật học, đại số
học, hình học - Di thảo số 58).
Trong khi đó Nguyễn Trường Tộ dùng lại hàng loạt khái niệm
cũ, có khi để chỉ nội dung mới: tam cương, ngũ thường, tam hào
(Di thảo số 27- Tế cấp bát điều) (khi nói đến Khoa luật học), Đại học sĩ, tham tri (khi nói về quan phương Tây- Di thảo số 27),
hiếu nghĩa (khi nói về Khoa luật học), nhân nghĩa, thiên đạo,
hà đồ, kim, mộc thủy thổ (Khi bàn về những tình thế lớn trong
thiên hạ). Fukuzawa thì khác, ông phê phán Âm dương, Ngũ hành: “Các
sĩ phu hai nước Trung Quốc và Triều Tiên mê tín hủ lậu không
biết đến khoa học là gì thì học giả phương Tây nghĩ Nhật Bản
chúng ta cũng chỉ là một nước Âm dương, Ngũ hành” (Thoát Á luận). Và ông phê phán nền giáo dục Nho giáo và các khái niệm của nó: “Giữa
thời buổi văn minh mới mẻ và đầy khí thế ngày nay mà khi bàn luận về
giáo dục thì họ thường lên tiếng giữ gìn nền giáo dục Nho học (Hán học),
bàn về giáo lý của trường học thì họ chỉ trích dẫn những lời giáo huấn
“Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí” (Thoát Á luận).
Khái niệm đảng của Nguyễn Trường Tộ khác khái niệm đảng
của Fukuzawa, đó là một nhóm người nào đấy chứ không phải một
tổ chức xã hội có tuyên ngôn chính trị và có lí do xã hội
của nó. Khái niệm đảng của Nguyễn Trường Tộ cũng vẫn nằm
trong nghĩa bè đảng: “học giả nước ta ngày nay phần nhiều
cứ viện xưa chống nay, nói quấy làm rối loạn chính trị, đàm
luận xì xào, để chia bè lập đảng mà bài báng triều đình”, “Vì
nước họ có hai đảng: Một là Viện công hầu, một là Viện Thứ
dân; Viện Công hầu thì hay đợ bỡ ý vua, còn Viện Thứ dân thì
cho việc ấy là ức hiếp người ta” (Di thảo số 5).
Fukuzawa đã hiểu đảng là một tổ chức chính trị xã hội: “Về
các đảng phái thì hình như có các Đảng Bảo thủ, Đảng Tự do.
Hai đảng này luôn cạnh tranh gay gắt, không bên nào chịu thua bên
nào”. Ông tìm hiểu tại sao lại có các đảng, lại có
chuyện tranh cãi nhau, dần dần hiểu ra và cho đó là nhận thức
lớn nhất trong chuyến đi châu Âu [9]. Đảng là một yếu tố mới
của xã hội hiện đại, nó không có trong truyền thống, hiểu vai
trò của nó, nhận thức được về nó, xem đó là nhận thức lớn
nhất có nghĩa là phân loại được những cái gì là căn bản.
Nguyễn Trường Tộ không băn khoăn, không quan tâm cái gì là
quan trọng trong các tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội, các
mối liên hệ của xã hội hiện đại. Các khái niệm then chốt như
tự do, bình đẳng, nhân quyền không được ông nói đến. Một loạt
khái niệm kinh tế, chính trị, xã hội mà Fukuzawa rất chú ý
tìm hiểu nhưng không thấy trong các di thảo Nguyễn Trường Tộ
như: ngân hàng, bệnh viện, luật bưu chính viễn thông, kinh tế
chính trị.
Không quan tâm đến các khái niệm xã hội, các thiết chế xã
hội thì không hướng đến xã hội mà hoạt động báo chí, thành
lập trường học, nâng cao dân trí như Fukuzawa. Nguyễn Trường Tộ
cũng nói đến chuyện ra báo nhưng nội dung công báo phục vụ cho
nhà nước, nói đến học các môn thực dụng mà không nói đến đào
tạo chủ thể tư duy mới, lực lượng nhận thức của một xã hội
mới.
Việc sử dụng khái niệm cũ mới liên quan đến cách hiểu văn
minh, xã hội phương Tây, cách hiểu duy tân, hiện đại hóa và
đồng thời ảnh hưởng quyết định đến cách hành xử.
Kim Mã Thượng, tháng 9 năm 2011
______________________
[1] Trần Đình Hượu: Lịch sử tư tưởng Việt cuối thể kỉ XIX và đầu thế kỉ XX (Đề cương chi tiết). vanhoanghean.com.vn
[2] Các trích dẫn di thảo đều theo sách: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Trương Bá Cần, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, 2002
[3] Dẫn theo Nishikawa Shunsaku: Nhà canh tân giáo dục Nhật Bản thời Minh Trị, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php
[4] Nguồn: Chân dung những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu trên thế giới, NXB Thế giới, 2004
[5] Fukuzawa Yukichi. Phúc ông tự truyện, Nxb Thế giới, Hà Nội 2005, tr 196.
[6, 7, 8, 9] Fukuzawa Yukichi. Phúc Ông tự truyện, Nxb Thế giới, H. 2005, tr195. tr 190; tr.197; tr 196-197.