Nguyễn Hưng Quốc
Trong bài này, viết về sự tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc liên
quan đến Biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải), tôi không chú ý đến các
khía cạnh lịch sử, pháp lý, quân sự, kinh tế và ngoại giao vốn đã được
nhiều người đề cập mà chỉ tập trung vào một khía cạnh nhỏ: thái độ giữa
hai nước; trong cái gọi là thái độ ấy, tôi chỉ giới hạn trong phạm vi
học thuật.
Đề tài này được gợi ý từ một bài viết của Shannon Tiezzi mới đăng
trên tờ The Diplomat gần đây: “Trận chiến học thuật về Nam Hải của Trung
Quốc” (China’s Academic Battle for the South China Sea”. Trong đó,
Tiezzi nhấn mạnh: trong cuộc giành giật lãnh hải với các nước Đông Nam
Á, trong đó phần lớn thuộc về Việt Nam, Trung Quốc không những chỉ chú
trọng đến việc tăng cường quân sự - đặc biệt là hải quân - cũng như các
hoạt động giám sát trên biển. Tất cả những điều đó đã được nhiều người
đề cập và phân tích. Có một khía cạnh khác, quan trọng không kém, nhưng
lại rất ít được chú ý: Đó là Trung Quốc còn huy động cả cộng đồng học
giả Trung Quốc vào cuộc chiến nhằm tìm kiếm tài liệu, phân tích dữ kiện,
tranh thủ sự đồng tình của thế giới và góp phần trong việc hoạch định
các chính sách quốc gia liên quan đến Biển Đông.
Tiezzi nhắc đến hai học viện chính:
Thứ nhất, Trung tâm sáng kiến hợp tác về Biển Đông học (Collaborative
Innovation Centre for South China Sea Studies), thuộc đại học Nanjing,
được thành lập vào năm 2012 như một trong 14 dự án nghiên cứu tầm vóc
quốc gia được ưu tiên hàng đầu tại Trung Quốc. Nhiệm vụ chính của Trung
tâm là nghiên cứu tất cả các khía cạnh quan trọng liên quan đến Biển
Đông, qua đó, tuyên truyền với nhân dân Trung Quốc cũng như mọi người
trên thế giới về chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông cũng như cố vấn
cho chính phủ Trung Quốc về những kế hoạch ngắn hạn và dài hạn liên
quan đến các cuộc tranh chấp trong khu vực. Để thực hiện điều đó, Trung
tâm đã sưu tầm và bảo quản trên 30.000 tài liệu từ nhiều nguồn khác
nhau, liên kết với nhiều đại học và học viện trên khắp thế giới, đặc
biệt tại Đài Loan và Mỹ để nghiên cứu chung về Biển Đông; hơn nữa, họ
còn nhắm đến việc đào tạo khoảng 100 tiến sĩ và 300 thạc sĩ về đề tài
Biển Đông trong vòng bốn năm.
Thứ hai là Viện Biển Đông học quốc gia (National Institute for South
China Sea studies), đặt tại tỉnh Hainan, được thành lập từ năm 1996,
dưới sự tài trợ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Nhìn trên trang web của
Viện, tôi thấy cơ sở của Viện rất đồ sộ, được chia thành nhiều bộ phận
khác nhau, ngoài bộ phận hành chính, còn có các bộ phận liên lạc, bộ
phận nghiên cứu về khoa học hàng hải, về kinh tế biển, về luật và chính
sách liên quan đến lãnh hải. Số lượng các công trình đã xuất bản của họ
cũng rất phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu tập trung vào việc khẳng
định chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông từ các khía cạnh lịch sử và
địa lý, việc phân tích các yếu tố địa chính trị (geopolitics) và quan
hệ giữa Trung Quốc và các nước khác, đặc biệt là Mỹ, trong các chính
sách liên quan đến Biển Đông.
Ngoài hai trung tâm và học viện vừa kể, chính phủ Trung Quốc còn
khuyến khích các học giả trong cả nước tập trung nghiên cứu về Biển Đông
dưới sự tài trợ của nhiều tổ chức khác nhau. Ví dụ, nhiều học viện về
quan hệ quốc tế, về khoa học xã hội, về kinh tế, về luật học hay về hàng
hải cũng tham gia vào đề tài Biển Đông từ góc độ chuyên ngành của mình.
Nói chung, nhà cầm quyền Trung Quốc chuẩn bị cho trận chiến trên Biển
Đông rất kỹ lưỡng và chu đáo. Họ không những tập trung các học giả về
Biển Đông mà còn đào tạo các thế hệ trẻ về đề tài ấy. Họ không những thu
thập các tài liệu có sẵn trong nước mà còn liên kết với nhiều quốc gia
khác trên thế giới để cùng nghiên cứu về đề tài Biển Đông một cách có
lợi nhất cho họ. Họ không những tuyên tuyền với nhân dân của họ mà còn
nhắm đến việc thuyết phục cộng đồng quốc tế về chủ quyền của họ trên
Biển Đông. Họ không những khuyến khích việc xuất bản thật nhiều tài liệu
liên quan đến Biển Đông mà còn sử dụng các chuyên gia như một thứ tư
bản trí thức nhằm xây dựng các chính sách về Biển Đông.
Shannon Tiezzi nhận định việc phát triển của các học viện và trung
tâm nghiên cứu về Biển Đông cho thấy chính phủ Trung Quốc rất nghiêm túc
trong việc xây dựng các chiến lược dài hạn của họ trong khu vực. Họ
không những tập trung vào việc củng cố các quyền lực cứng liên quan đến
vũ khí trên biển mà còn mở rộng các loại quyền lực mềm liên quan đến trí
thức và học thuật. Trong lãnh vực quyền lực mềm này, giới nghiên cứu
Trung Quốc cũng được huy động, từ đó, hình thành một thứ mặt trận riêng.
Ở trên là các hoạt động của Trung Quốc liên quan đến Biển Đông.
Còn Việt Nam thì sao?
Tất cả những gì chúng ta thấy chỉ là một con số Không to tướng.
Không có trung tâm nghiên cứu. Đã đành. Chính phủ cũng không hề
khuyến khích việc nghiên cứu hay thảo luận về Biển Đông. Nhớ, nhiều cuộc
hội thảo về Biển Đông đã bị ngăn chận hoặc phá đám bằng những biện pháp
rất hèn hạ (như cắt điện); nhiều blog về Biển Đông đã bị đám tin tặc
của nhà nước đánh phá.
Giải thích những việc ấy như thế nào nhỉ?