Ls Trần Vũ Hải
Lễ tưởng niệm Nelson Mandela tại Sân vận động Soccer City Stadium,
Soweto, ngoại ô Johannesburg ngày 10/12/2013 đã được truyền đi khắp thế
giới. Chúng ta thấy hàng trăm nhà lãnh đạo trên khắp thế giới trong lễ
tưởng niệm này, trong đó có tổng thống Mỹ Obama và và 3 cựu tổng thống
Mỹ, Tổng thư ký LHQ Ban Ki Moon, Chủ tịch Cuba Raul Castro, tổng thống
Iran. Trung quốc cử một đại diện cao cấp là Phó Chủ tịch nước Lý Nguyên
Triều, Việt Nam cử một vị mang hàm Bộ trưởng nhưng không ai rõ tên tuổi.
Tất cả các nhà lãnh đạo từ tả sang hữu, từ tư bản đến cộng sản đều ca
ngợi hết lời Mandela, người khổng lồ của lịch sử.
Sáng cùng ngày, ở Việt Nam, một số trí thức tham gia Diễn đàn xã hội dân sự
đã đến tưởng niệm tại Đại sứ quán Nam Phi tại Hà Nội, mang theo bài thơ
của nhà thơ Bùi Minh Quốc “Mandela”. Sau đó vài giờ, Chủ tịch Trương
Tấn Sang cũng đến viếng tại đây với lời ghi chú Mandela là lãnh tụ kiệt
xuất của các dân tộc bị áp bức.
2) Rất ngạc nhiên khi không có báo chí Việt nam nào của Đảng nhắc
đến Mandela đã là một người cộng sản. Trong thông cáo ngày 6/12/2013 của
ANC (Đảng cầm quyền Nam Phi hiện nay) đã khẳng định Mandela không chỉ
là nhà lãnh đạo của ANC mà còn là nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Nam
Phi. Khi còn sống, nhiều người khẳng định Mandela là đảng viên cộng sản,
tuy nhiên Mandela không chối bỏ mà cũng không khẳng định điều đó. Ông
từng viết “There will always be those who say that the Communists were using us, but who is to say that we were not using them?”, tạm dịch “Sẽ luôn có những người nói rằng những người Cộng sản đã lợi dụng chúng tôi, nhưng ai có thể nói rằng chúng tôi không lợi dụng họ?”
3) Mối tương duyên giữa Mandela và Đảng cộng sản Nam Phi hình thành
từ những năm 50-60 của thế kỷ trước, Mandale bị truy đuổi theo Đạo luật
ngăn chặn cộng sản của chế độ Apartheid (gần giống như Đạo luật 10-59
của Ngô Đình Diệm). Sau khi cho rằng đấu tranh bất bạo động không thể
thành công, ông đã trở thành nhà lãnh đạo chủ chốt phái đấu tranh bạo
động của ANC. Ông đã liên minh với Đảng cộng sản Nam Phi để đấu tranh vũ
trang, và trở thành nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Nam Phi nhưng không
được Đảng cộng sản Nam Phi công bố. Phe chủ trương bạo động của ANC đã
học tập chiến tranh du kích của những người nổi dậy Algeri chống thực
dân Pháp, những người Algeri này lại học những người cộng sản Việt Nam
đã biết cách thắng thực dân Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Suy
rộng ra, Mandela có thể coi là “học trò đấu tranh vũ trang” của Cộng sản
Việt Nam. Ông đã bị kết án chung thân vào năm 1964 vì tội bạo động
chống chính quyền Apartheid. Ông cũng bị Mỹ, Anh quốc liệt vào danh sách
những kẻ khủng bố. Hàng mấy chục năm tù, Mandela đã khiến một số người
phương Tây khâm phục đã viết bài hát “Free Nelson Mandela” và đã trở
thành bài hít nhất vào những năm 1980. Phong trào đòi tự do cho Mandela ở
các nước Châu Âu và Mỹ mạnh mẽ như phong trào phản chiến chống Mỹ can
thiệp ở Việt Nam (1960-1970). Phong trào này buộc chế độ Apartheid phải
trả tự do cho Mandela. Sau khi Chris Hani lãnh tụ Đảng cộng sản Nam Phi
và ANC bị ám sát chết và người bạn, đồng nghiệp Olive Tambo- Chủ tịch
ANC chết vào năm 1993, Nam Phi rơi vào khủng hoảng trầm trọng, có khả
năng xung đột giữa các màu da, nhà cầm quyền Apartheid và nhân dân Nam
Phi nhận ra không ai khác ngoài Mandela có khả năng hàn gắn các chủng
tộc của Nam Phi. Năm 1964, Nelson Mandela đắc cử tổng thống Nam Phi với
62% số phiếu bầu. Ông làm tổng thống đúng một nhiệm kỳ 5 năm, đặt cơ sở
cho nền dân chủ đa chủng tộc ở Nam Phi, phục hồi và phát triển nền kinh
tế thị trường của Nam Phi. Ông đã lập Ủy ban sự thật và Hòa giải để khép
lại quá khứ. Sau khi thôi không làm Tổng thống, ông còn hoạt động tích
cực 5 năm nữa và chỉ thực sự về hưu vào năm 2004. Lần xuất hiện cuối
cùng trước công chúng của ông là vào 2010 (nhân dịp World Cup được tổ
chức tại Nam Phi, việc đăng cai thành công chủ yếu nhờ vào uy tín và nỗ
lực của Mandela).
4) Những điều tạo nên sự khác biệt giữa Người cộng sản Mandela và các nhà lãnh đạo cộng sản khác.
(i) Mặc dù đã từng lãnh đạo bạo động, nhưng Mandela trở thành tổng
thống sau một cuộc bầu cử dân chủ, hòa bình. Ông chỉ làm tổng thống một
nhiệm kỳ. Trong khi hầu hết các nhà lãnh tụ cộng sản khai quốc trên thế
giới làm lãnh đạo đất nước sau khi lật đổ bằng bạo lực chế độ cũ hoặc do
kết quả của một cuộc chiến, và họ đều lãnh đạo hết đời hoặc cho đến khi
bị thanh trừng.
(ii) Thay vì tìm cách duy trì sự thống trị độc đảng cho phe mình
(ANC hoặc Đảng cộng sản), Mandela đã xây dựng một chế độ dân chủ đa
đảng, các đảng đều có thể cạnh tranh với ANC, kể cả những đảng đối lập
của người da trắng lẫn người da đen. Người ta giải thích có thể do
Mandela là một luật sư, và ông hiểu một nhà nước dân chủ, pháp quyền
không thể là một nhà nước độc đảng. Điều đó chưa chắc đã đúng, vì Phidel
Castro trước khi trở thành lãnh tụ cộng sản Cuba đã là một luật sư tài
ba.
(iii) Sau khi nắm quyền, Mandela đã không chủ trương quốc hữu hóa
nền kinh tế như các nước cộng sản hoặc theo khuynh hướng cánh tả. Có
người cho rằng ông đã nghe lời khuyên từ Lý Bằng (nguyên Thủ tướng Trung
quốc, 1987-1998), với kinh nghiệm của Trung Quốc. Ông đã mời những
chuyên gia kinh tế hàng đầu để xây dựng lại nền kinh tế thị trường. Với
sự sát sao và kinh nghiệm của một luật sư, ông đã tham gia hoạch định
chính sách kinh tế, phục hồi và phát triển nền kinh tế Nam Phi từ một
đất nước bị thế giới bỏ rơi, tẩy chay, cấm vận.
(iv) Ông không công khai là đảng viên cộng sản, vì Đảng cộng sản
của ông cũng đã nhận thấy hình mẫu chế độ Xô viết (dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản) không còn hấp dẫn cho quần chúng và thế giới, do sự sụp
đổ của Liên xô và Đông Âu vào thời điểm ông được tự do và trở thành
người lãnh đạo Nam Phi.
(v) Sự khác biệt lớn nhất là Mandela đã lập Ủy ban Sự thật và Hòa giải.
Ủy ban này không nhằm mục đích trừng phạt kẻ thù của ANC và người da
đen, mà nhằm làm sáng tỏ sự thật về những tội ác trong thời kỳ
Apartheid, chủ trương hòa giải giữa những người đã theo chủ nghĩa
Apartheid và gây tội ác với những nạn nhân của chủ nghĩa này, bồi thường
cho nạn nhân của tội ác. Những người đã tham gia chế độ Apartheid vẫn
được tiếp tục tham gia đời sống kinh tế chính trị của Nam phi, sau khi
họ đã từ bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Ủy ban Sự thật và Hòa giải
không chỉ tìm sự thật về những tội ác của chế độ Apartheid và những
người da trắng đối với người da đen, mà còn làm sáng tỏ những hành vi
bạo lực quá mức của những thành viên của ANC và những người da đen (kể
cả gây ra đối với người da trắng) trong thời kỳ Apartheid. Mandela không
chỉ là người đấu tranh lật đổ chế độ Apartheid, ông trở thành người khổng lồ của lịch sử chính vì ông là người hòa giải vĩ đại.
Ông sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã tù đầy ông hàng chục năm, sống hòa
bình với họ, thậm chí tổng thống cuối cùng của chế độ Apartheid Nam Phi
đã trở thành bạn thân của ông. Cái bắt tay giữa hai người đứng đầu của
hai nước thù địch là Tổng thống Mỹ Obama và Chủ tịch Cuba Raul Castro
trong lễ tang Mandela đã thể hiện các nhà lãnh đạo này đã biết học tập
tinh thần hòa giải của Nelson Mandela.
Tinh thần sự thật và hòa giải của Nelson Mandela xứng
đáng là tấm gương cho những người cộng sản Việt Nam cũng như những nhà
chính trị, những người đấu tranh khác noi theo./
Ls Trần Vũ Hải