Neil J. Kritz
Đỗ Kim Thêm dịch
Đỗ Kim Thêm dịch
Lời người dịch: Luật pháp có một sức mạnh vô hình, nhưng không do huyền thoại của tôn giáo và cũng không nhờ cuỡng chế kinh tế hay bạo lực quân đội. Công dụng của luật pháp là trừng phạt các vi phạm và đem lại công bình và trật tự cho xã hội. Khi cá nhân có tinh thần tìm hiểu công lý, yêu chuộng hoà bình và đồng thuận cho một căn bản chung sống, thì tất cả tranh chấp xã hội sẽ được giải quyết an hòa bằng phương tiện luật pháp.* * *
Nhưng luật pháp còn là một phương tiện cho các quốc gia lâm chiến vãn hồi hoà bình và tái thiết hậu chiến, đặc biệt nhất là hoà giải quốc gia và hoà hợp dân tộc, một khái niệm quen thuộc với người Việt từ khi có hiệp định Paris.
Thực ra, hoà giải không chỉ là tha thứ của nạn nhân về sai trái của thủ phạm, mà còn là một khuôn khổ luật pháp để xây dựng lại mối quan hệ và niềm tin cho toàn thể xã hội, tạo lập một cộng đồng cho tương lai. Sự đồng tình của cả hai phe thắng và thua trận trong thời hậu chiến sẽ đem lại ý nghiã chung sống về chính trị: điểm chủ yếu cho các vấn đề cá nhân, tập thể, nhà nước, luật pháp và đạo đức sẽ được thảo luận.
Nhưng quan trọng nhất, hoà giải là một đồng thuận giá trị về chính trị. Đầu hàng của cá nhân hay tập thể là một thay đổi thái độ trước phe thắng cuộc và một quyết định hợp lý của lý trí cần được thể chế chính trị bảo vệ, và vai trò luật pháp là điều kiện thể chế tiên quyết. Khuôn khổ cho hoà giải là bình đẳng trước pháp luật, thực thi dân chủ, tôn trọng nhân quyền, dân quyền và tinh thần thượng tôn luật pháp của chế độ.
Dầu bối cảnh tranh chấp khác nhau, các nước Nam Phi, Nam Tư củ, Bắc Ái Nhĩ Lan, Sierra Leone, El Salvador, Guatemala và Rwanda đã tìm ra một căn bản đồng thuận cho tiến trình hoà giải, mà đạo đức là mục tiêu và luật pháp là phương tiện. Đó là hai vấn đề kinh nghiệm cho chúng ta cần được đặt ra khi thảo luận về hoà giải dân tộc. Bản dịch sau đây giới thiệu về vai trò của luật pháp trong tiến trình này.
Nguyên tác của bản dịch là „The Rule of Law in the Postconflict Phase – Building a Stable Peace“, Chương 47 của “Turbulent Peace, The Challenges of Managing International Conflict, Chester A. Croker et al (eds.) 2001, U. S Institute of Peace Press, 2001, 801-820.
Neil J. Kritz là Giám Đốc Chương Trình Rule of Law của U. S Institute of Peace. Người dịch đặt tựa đề cho bản dịch và loại bỏ tất cả các chú thích để tham khảo về luật quốc tế.
Bài liên quan: “Lý Thuyết Đạo Đức Cho Hoà Giải Chính Trị“, Colleen Murphy, „A Moral Theory of Political Reconcialtion”, Cambridge University Press, 2010.
Bản chất chiến tranh đã thay đổi từ cuối thế kỷ XX. Điều này đòi hỏi
chúng ta cần có một viễn kiến mới về phương pháp để giải quyết xung đột
cũng như kiến tạo và duy trì hoà bình. Hiện nay, đa số các cuộc chiến
xãy ra trên toàn thế giới, mà thực ra là giữa các nước với nhau nhiều
hơn là có tính cách quốc tế. Chiến tranh giữa quân đội của các quốc gia
có chủ quyền là ngoại lệ.
Thay vào đó, những xung đột tôn giáo và sắc tộc, các tranh chấp về
quyền dân tộc tự quyết, quyền kế thừa và các đấu tranh có vũ trang bạo
lực giữa các lực lượng chính trị đối kháng quốc nội đã lên đến 93 %
trong tổng số các xung đột có vũ trang, theo như một tài liệu ghi nhận
được trong những năm gần đây về tình hình thế giới.
Thống kê cho thấy có những hậu qủa sâu xa tác hại cho tiến trình ngăn
ngừa tranh chấp, giải quyết xung đột và kiến tạo hoà bình trong thời kỳ
hậu chiến. Tất cả những phương tiện kỹ thuật có thể giải quyết chiến
tranh loại cổ điển giữa các nhà lãnh đạo các quốc gia trước đây, nay đã
không còn thích hợp làm cho các thoả ước có ý nghĩa hơn để hoà giải các
đối nghịch nội bộ và đoàn kết quốc gia. Một trong những yếu tố đóng vai
trò quan trọng trong bối cảnh thay đổi của chiến tranh là sự phát triển
về uy lực pháp quyền.
Để làm khởi điểm, chúng ta cần nhận ta sự khác biệt giữa uy lực pháp
quyền (the rule of law) và đơn thuần cai trị bằng luật (rule by law),
đây là điểm chính. Những khái niệm bao quát như dân chủ và uy lực pháp
quyền có thể bị lầm lộn. Ngay cả các chế độ độc tài thường dùng luật
pháp như một phương tiện trong cơ chế kiểm soát xã hội. Chế độ Đức Quốc
Xã che đậy tội ác bằng một bề mặt hợp pháp. Hiến pháp của Liên Xô năm
1936 đọc lên giống những lời kinh cầu nguyện về những quyền hiến định,
nhằm phục vụ cho Stalin vì những khe hở luật pháp dễ làm biến dạng luật.
Trong những tuần cuối cùng còn nắm quyền, chế độ Ceausescu tại Romania
đã dùng luật để giết dân.
Đó là những thí dụ cho thấy cai trị bằng luật trong khi toà án, luật
lệ chỉ là huy động gian xảo để phục vụ bạo quyền. Thực ra, uy lực pháp
quyền không chỉ đơn thuần cung ứng phương tiện để chính quyền có thể sử
dụng và lạm dụng quyền lực. Ngược lại, nguyên tắc này giới hạn quyền của
chính quyền, buộc chính quyền phải tuân thủ phương cách ứng sử phù hợp
luật pháp đã được quy định và công bố. Trong bối cảnh hậu chiến, nguyên
tắc này còn giúp kẻ cựu thù đóng vai trò chủ yếu trong việc tuân phục
trật tự mới với tất cả thành tín.
Tuân thủ uy lực pháp quyền không chỉ dừng lại ở chỗ chỉ áp dụng một
cách máy móc về những đặc điểm kỹ thuật pháp lý trong trạng thái tĩnh
lặng. Nguyên tắc này còn tìm kiếm liên tục những thể chế và tiến trình
nhằm tạo ổn định đích thực thông qua công lý. Ngoài mục tiêu hướng về
một chính quyền mà khả năng bị hạn chế, uy lực pháp quyền nhằm bảo vệ
quyền luật định cho các thành viên trong xã hội. Nguyên tắc này tạo ra
luật và thủ tục để cưỡng chế quyền của mọi phe phái, buộc tất cả phải
chịu trách nhiệm về hành động của mình và cấm đoán mọi cách thu tóm
quyền lực thành độc tài hay chuyên chế. Luật pháp còn cung ứng đủ loại
phương tiện nhằm giải quyết ôn hòa các tranh chấp giữa tư nhân, phe nhóm
hay chính quyền. Bằng cách này, uy lực pháp quyền kết hợp để đảm bảo
một nền hoà bình lâu dài. Trong một phiên họp lịch sử tại Copenhagen năm
1990, 35 quốc gia khi thành lập Cơ Quan An Ninh và Hợp Tác tại Châu Âu,
Conference on Security and Cooperation in Europe (CSCE) có xác nhận mối
quan hệ này. CSCE tuyên bố rằng mọi xã hội dựa trên uy lực pháp quyền
là điều kiện tiên quyết cho một trật tự lâu dài cho hoà bình, an ninh,
công bình và hợp tác.
Sự thay đổi các tranh chấp từ dạng quốc tế sang các liên quốc gia đem
lại vai trò uy lực pháp quyền với hai cách quan trọng. Thứ nhất, luật
quốc tế mở lối và tạo thích nghi cho những tình hình mới thông qua những
thay đổi tiệm tiến về luật chiến tranh. Hiện nay, người ta ngày càng
đồng thuận nhiều hơn về những tiêu chuẩn pháp luật mà trước đây chỉ quy
định chiến tranh giữa các quốc gia, những lạm quyền vào thời chiến cũng
như những vi phạm luật quốc tế, ngày nay luật được áp dụng trong phạm vi
liên quốc.
Từ nữa thế kỷ nay, thế giới đã có quy định những quy trách cá nhân
trong việc vi phạm tội chiến tranh, tội ác chống nhân loại tại
Nuremberg. Theo luật quốc tế, những tội phạm này được hiểu chung là chịu
trách nhiệm khi đặt trong khung cảnh chiến tranh giữa các quốc gia.
TAHSQT (ICC The Hague)
Tháng 11 năm 1994 khi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (LHQ) thiết lập
Toà Án Hình Sự Quốc Tế để xét xử tội diệt chủng tại Rwanda, thì sự hiểu
biết này đã thay đổi. Khi Hội Đồng Bảo An chấp thuận Hiến chương Toà án
Rwanda, một mặt là nghiêm cấm mọi đòi hỏi nối kết giữa khởi tố quốc tế,
trừng phạt các tội ác chống nhân loại, nhưng mặt khác, tranh chấp về các
vi phạm có đặc điểm quốc tế hay phi quốc tế, cũng áp dụng những cấm
đoán quốc tế vào trong những tranh chấp thuần túy quốc nội. Hiệp ước này
được chuẩn nhận vào năm 1998 để thiết lập Toà Án Hình sự Quốc tế Thưòng
trực. Hiệp ước cũng du nhập khảo hướng này khi định nghĩa tội diệt
chủng, tôi phạm chống nhân loại và hàng loạt các tội phạm khác mà qua đó
toà án có quyền tài phán, ngay cả khi các tranh chấp này không có tính
cách quốc tế.
Cùng lúc và tương phản với một vài quân đội chính quy, ngày nay,
phương cách ứng sử theo luật quốc tế cũng được áp dụng cho những lực
lượng không thường trực và phiến loạn tham gia nội chiến, dù nói chung,
các lực lượng này không hề được học tập về luật chiến tranh. Thách thức
trong thời gian sắp đến là nhu cầu cần phổ biến và áp dụng hữu hiệu luật
chiến tranh cho các đối tượng không phải là nhà nước.
Ý nghĩa thứ hai là luật pháp phải thích hợp với sự thay đổi về bản
chất của chiến tranh - và đó cũng là chủ đề của tiểu luận này - trở
thành vai trò chủ yếu của uy lực pháp quyền trong việc đem lại ổn định
và hoà bình dài lâu sau tranh chấp giữa hai quốc gia. Điểm có thể hoàn
toàn thuyết phục được và cũng thường xãy ra là chiến tranh cổ điển giữa
hai quốc gia độc lập có thể giải quyết và một nền hoà bình lâu dài có
thể phát huy mà không cần thay đổi luật lệ quốc nội, cấu trúc hay thể
chế của các nước tranh chấp.
Cuộc chiến giữa Iran và Irak vào năm 1980-88, xung đột biên giới giữa
Peru và Ecuador, và chiến tranh giữa Ethopia và Eritrea đã minh chứng
cho luận điểm này. Không quốc gia nào trong sáu quốc gia lâm chiến này
khi kết thúc tranh chấp phải chiụ sự thay đổi về mặt tổ chức trong nước
với mức độ trầm trọng. Mặt khác, giải quyết xung đột có vũ trang giữa
các phe nhóm trong một quốc gia và ngăn ngừa mọi cạnh tranh đòi hỏi quan
tâm đến cấu trúc xã hội và thể chể nhằm đảm bảo cho từng phe lâm chiến
là quyền lợi của họ luôn được bảo vệ thông qua những phương tiện bất bạo
động. Vấn đề này hiếm khi đạt được, và nếu có thể xãy ra, đó là khi
người ta quan tâm đến việc xây dựng một thể chế tôn trọng uy lực pháp
quyền.
Như Tổng Thư Ký LHQ Boutros Boutroas-Ghali từng xác định khi ông mô
tả về việc kiến tạo hoà bình: „Muốn công tác kiến tạo và duy trì hoà
bình thành đạt, chúng ta phải kết hợp những nỗ lực toàn diện, để nhận ra
và hỗ trợ các cấu trúc để cũng cố hoà bình và gia tăng tin tưởng và
phúc lợi cho mọi người.... Có một sự nối kết hiển nhiên giữa uy lực pháp
quyền và… thành tựu của một nền hoà bình đích thực và an ninh trong bất
cứ một trật tự chính trị mới và ổn định nào.
Chuẩn Mực Pháp Quyền và Hỗ Trợ Quốc Tế Đang Thành Hình
Trong những năm gần đây, những chuẩn mực quốc tế được triển khai để
định nghĩa uy lực pháp quyền khá chi tiết, cung ứng một lộ trình đa dạng
cho những ngưòi dấn thân vào những nỗ lực kiến tạo hoà bình. Trình bày
minh bạch những chuẩn mực này bắt nguồn chủ yếu từ kết hợp lại hai trào
lưu trong hai lĩnh vực - dân chủ và nhân quyền - mỗi lĩnh vực đều có
liên hệ chặt chẽ nhau, nhưng lại khác biệt với uy lực pháp quyền.
Trong những thập niên vừa qua, một trong những trào lưu tư tưởng này
đặt trọng tâm vào những hệ thống dân chủ và xem đây là một cách bảo
chứng tốt đẹp nhất không những cho tự do mà còn cho hoà bình (Trường
phái này có ảnh hưởng sâu đậm, nếu không hẳn là độc tôn, thuộc về chính
giới bảo thủ phương Tây, những người đã cổ vũ cho dân chủ trong bối cảnh
chiến tranh lạnh). Những công trình nghiên cứu quy mô đã minh chứng một
sự thật hiển nhiên là các nước dân chủ ít gây chiến với các nước khác
hơn là các nước độc tài toàn trị.
Nhưng cổ vũ dân chủ như là một hệ thống giá trị cho tổ chức xã hội
đòi hỏi nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng. Bằng cách nào người ta có
thể bảo đảm cho một hình thức dân chủ? Trả lời câu hỏi này đòi hỏi thay
đổi khái niệm dân chủ từ phạm vi vĩ mô sang việc nghiên cứu các cấu trúc
thể chế đặc thù hay những cơ chế chủ yếu cho dân chủ và phân biệt nó
với những hệ thống không dân chủ. Kết quả là cần công nhận và khởi xướng
những yếu tố cơ bản của uy luật pháp quyền để bảo đảm tối hậu cho dân
chủ.
Động lực cho nhân quyền là theo cách phân tích đối nghịch, đi từ đặc
thù đến tổng quát. Một phần do những thảm khốc của Đệ Nhị Thế Chiến tác
động, luật quốc tế đem lại đảm bảo ngày càng mở rộng về những vấn đề
nhân quyền theo một bảng danh mục đúng theo định nghĩa của LHQ và các tổ
chức điạ phương khác.
Tuy nhiên, qua thời gian, các phong trào nhân quyền quốc tế (trong
chừng mực nào đó đã bị ảnh hưởng theo quan điểm tự do) ngày càng công
nhận một sự kiện cơ bản: Trong khi một chiến dịch quốc tế thường có thể
cứu được một tù nhân chính trị khỏi bị giam cầm, nhưng phạm nhân này
được thay thế nhanh chóng bởi các nạn nhân khác, trừ khi nào hệ thống
hay cấu trúc chính quyền cho phép lạm dụng được thay đổi. Những bảo đảm
cơ bản về nhân quyền được quy định khác nhau trong luật quốc tế có thể
được thực thi một cách hữu hiệu do những quy định hướng dẫn chi tiết về
thể chế và thủ tục mà các quyền này phải được áp dụng. Một lần nữa cho
thấy kết quả là có sự công nhận về nhu cầu soạn thảo về ý nghĩa của uy
lực pháp quyền.
Do đó, càng có nhiều tài liệu về công ước, nghị quyết, tuyên bố và
phúc trình của cơ quan LHQ soạn thảo về tiêu chuẩn cho uy lực pháp
quyền. Các tổ chức địa phương khác nhau cũng góp phần tương tự vào việc
soạn thảo những quy cách hướng dẫn này. Tổ chức An ninh và Hợp Tác tại
Châu Âu, (OSCE, trước đây là CSCE) đã đưa ra định nghĩa chi tiết liên hệ
đến yếu tố thể chế và thủ tục của uy lực pháp quyền - một bảng danh mục
đầy đủ chi tiết nhất của loại này được chuẩn nhận do một tổ chức quốc
tế - được sử dụng như là tiêu chuẩn cho 55 quốc gia hội viên. Hội Đồng
Châu Âu đòi hỏi các thành viện minh thị chấp nhận uy lực pháp quyền
trong tổ chức và cũng triển khai hàng loạt các chuẩn mực phức tạp tương
tự. Cả hai tổ chức của Hoa Kỳ và Hội Đồng Châu Âu triển khai và chấp
hành những tiêu chuẩn về uy lực pháp quyền qua những cơ quan tài phán
địa phương và toà án về nhân quyền. (Trong trường hợp Hội Đồng Châu Âu
có hai cơ chế riêng biệt gần đây đã nhập một). Như đã được khởi thảo
trong các nguồn khác nhau, những nghĩa vụ quy định cho uy lực pháp quyền
gồm những điểm sau đây:
- một chính quyền theo thể chế đại nghị mà cơ quan hành pháp chịu
trách nhiệm trước cơ quan lập pháp do dân cử hay trước đơn vị tranh cử
địa phương,
- nhiệm vụ của chính quyền là thi hành theo hiến pháp và luật pháp quy định,
- phân biệt rõ rệt giữa nhà nước và các đảng chính trị,
- trách nhiệm giải trình của quân đội và cảnh sát truớc chính quyền dân sự,
- cứu xét và chấp nhận lập pháp qua thủ tục công khai,
- cứu xét và chấp nhận lập pháp qua thủ tục công khai,
- công bố những luật lệ hành chánh để tạo điều kiện giá trị cho luật,
- những phương tiện bồi thường hữu hiệu đối với những quyết định hành
chánh và cung cấp tin tức cho những người bị ảnh hưởng đến các biện
pháp này,
- hệ thống tư pháp độc lập,
- bảo vệ tính cách độc lập của luật giới,
- quy định chi tiết những bảo vệ trong phạm vi thủ tục hình sự,
- bồi thường cho các nạn nhân bị công quyền lạm dụng,
- bầu cử tự do và công bằng và
- công nhận quyền luật định được tham gia sinh hoạt chính trị.
Trong khi khởi thảo những nguyên tắc về uy lực pháp quyền, một số các
tài liệu này có đề cập và mở rộng các kết ước về nhân quyền theo truyền
thống, gồm có tự do lâp hội, tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do di
chuyển và bảo vệ chống tra tấn.
Trong những năm gần đây, ngoài việc khởi thảo những chuẩn mực cho uy
lực pháp quyền, có nhiều chương trình viện trợ được mở rộng nhằm giúp
cho việc áp dụng, đặc biệt là tại các nước đang có tranh chấp. Lượng
giá, trợ giúp kỹ thuật, huấn luyện, tham khào các chuyên gia trong việc
soạn thảo các cải cách lập pháp và lập quy, đặt những phái bộ quan sát
và tư vấn, tặng những phương tiện và tài liệu để gia tăng uy lực pháp
quyền là những đặc trưng cơ bản trong khung cảnh tái thiết hậu chiến.
Những cung ứng viện trợ thường xuyên gồm nhiều cơ quan khác nhau của
LHQ (đặc biệt là Chương trình Phát triển LHQ, Văn Phòng Cao Ủy LHQ về
Nhân Quyền), các tổ chức điạ phương, Ngân Hàng Thế Giới, cơ quan tài trợ
song phương và các tổ chức phi chính phủ ngoại quốc. Luật sư thuộc các
đơn vị quân đội duy trì hoà bình đôi khi đóng vai trò tích cực. Giới hỗ
trợ luật pháp trở nên quan trọng tại một số nơi có tranh chấp, họ tổ
chức các phiên họp để phối hợp và chia sẻ thông tin, tránh trùng lấp,
cung ứng hỗ trợ liên tục vì khả năng tiếp thu có giới hạn. (Họ lập luận
là với mức độ hoạt động nâng cao, mức độ tổng hợp các phương tiện khả
dụng trong việc tái thiết hậu chiến thường thường ít hơn so với nhu cầu,
và các nhà tài trợ thường theo đuổi nhiều chương trình khác nhau.)
Điều cần lưu tâm là những chuẩn mực đề cập ở trên mang lại một lộ
trình cho việc phát triển uy lực pháp quyền trong việc tái thiết hậu
chiến, nhưng lại ít khi được duy trì để hoàn thiện trong tình trạng vẫn
chưa hoàn chỉnh. Tại những nước có nội chiến dai dẳng và đẩm máu, nói
chung, hệ thống tư pháp ở trong tinh trạng đổ nát trầm trọng. Ngay cả
khi có tòa án khả tín, thì những thể chế và nhân viên của hệ thống bị
hủy hoại hoặc tham nhũng thành đặc tính điển hình.
Tuy nhiên, hỗ trợ lớn lao của quốc tế, xây dựng hệ thống tư pháp hữu
hiệu, (hoặc trong trường hợp một số quốc gia, xây dựng cơ sơ tư pháp lần
đầu tiên) sẽ không đạt được trong một sớm một chiều. Nhu cầu tuyển
dụng, huấn luyện điều tra viên, công tố viên, chánh án và nhân viên toà
án, chấp nhận cải cách pháp luật và hành chánh, phát triển luật giới độc
lập và vững mạnh, khởi dụng những phương tiện và trang bị thiết yếu cho
việc điều hành hệ thống, tất cả tạo một tinh thần trọng pháp đòi hỏi
nhiều thời gian. Khả năng quốc tế trong việc hỗ trợ nhanh chóng và thích
ứng về pháp luật cho những quốc gia này đang phát triển, nhưng còn cần
phải tiến xa hơn nữa. Tiến triển về uy lực pháp quyền thời hậu chiến,
giống như những tiến trình khác, có thể còn nhiều hỗn độn và chậm chập.
Tuy nhiên, trong những trường hợp, kiên quyết đòi hỏi cầu toàn cho một
hệ thống trước khi hệ thống được cải thiện có thể gây phản tác dụng.
Ngay cả khi cộng đồng quốc tế can thiệp toàn diện, gần như đãm nhiệm hầu hết các công việc tư pháp địa phương, quốc tế cũng không đủ khả năng thỏa mãn nhu cầu luật lệ. Đó là trường hợp Kosovo thời hậu chiến, khi phái bộ LHQ tham gia vào quyền hành pháp và lập pháp; các chuyên gia ngoại quốc do LHQ mang tới và họ được quyền ủy trị để quản nhiệm hệ thống tư pháp. Ngay trong trường hợp này, thì cách hoạt động của các tòa án do LHQ điều động và những luật lệ do LHQ áp đặt cũng không theo chuẩn mực quốc tế như trong một báo cáo của văn phòng OSCE Kosovo than phiền.
Ngay cả khi cộng đồng quốc tế can thiệp toàn diện, gần như đãm nhiệm hầu hết các công việc tư pháp địa phương, quốc tế cũng không đủ khả năng thỏa mãn nhu cầu luật lệ. Đó là trường hợp Kosovo thời hậu chiến, khi phái bộ LHQ tham gia vào quyền hành pháp và lập pháp; các chuyên gia ngoại quốc do LHQ mang tới và họ được quyền ủy trị để quản nhiệm hệ thống tư pháp. Ngay trong trường hợp này, thì cách hoạt động của các tòa án do LHQ điều động và những luật lệ do LHQ áp đặt cũng không theo chuẩn mực quốc tế như trong một báo cáo của văn phòng OSCE Kosovo than phiền.
Yếu Tố Chủ Yếu Về Cấu Trúc và Thủ Tục
Uy lực pháp quyền kết hợp với một vài yếu tố tất yếu làm xoa dịu căng
thẳng và giảm khả năng đưa tới những xung đột trầm trọng hơn. Vì việc
rà soát toàn diện mọi khiá cạnh của uy lực pháp quyền sẽ vượt ra khỏi
khuôn khuôn khổ của tiểu luận này, nên ở đây chỉ nêu lên một vài yếu tố
chính nhằm tìm hiểu vai trò quan trọng trong việc vãn hồi hoà bình và
ngăn ngừa xung đột.
Tư Pháp Độc Lập
Dĩ nhiên, đòi hỏi chính cho việc vận hành uy lực pháp quyền là một
nền tư pháp độc lập. Về mức độ cơ bản, trong bất cứ hệ thống nào, mục
tiêu chủ yếu của tòa án cũng là nhằm phục vụ như một diễn đàn để đem lại
giải pháp an hoà cho moị tranh chấp. Xung đột và bất hoà là điều không
thể tránh được trong bất cứ xã hội con người nào. Một điều nguy hiểm là
khi tạo một mô hình lý tưởng mà không nghĩ đến xung đột cá nhân hay phe
nhóm. Muốn xây dựng một nền hoà bình lâu dài, điều cần thiết là phải đưa
tất cả những xung đột vào trong một phương thức giải quyết theo thông
lệ và được chấp nhận trước khi các xung đột này trở nên bạo động và khó
kiểm soát.
Trong bất cứ quốc gia nào có xung đột vũ trang đang thành hình, sẽ
còn có đủ loại các khiếu nại và cáo giác bất công. Việc này còn bao gồm
cả những yêu sách về trừng phạt cho những người phạm tội trong chiến
tranh và những tội khác.
Chiến tranh làm cho con người tản lạc. Hậu quả của việc hồi hương
người tỵ nạn hay tù nhân thường có tranh chấp khi khiếu nại về tài sản.
Trong bối cảnh hậu chiến, các toà án thường được thỉnh cầu giải quyết
các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng ngôn ngữ thiểu số hoặc quyền
tham gia bầu cử của các tổ chức khác nhau. Mỗi vấn đề là một chuyện cực
kỳ biến động, một nền tư pháp độc lập sẽ là phương tiện an toàn và khả
tín để giải quyết vấn đề. Dĩ nhiên, nền tư pháp sẽ giải quyết những
tranh chấp bình thường và hàng ngày trong dân chúng, nhưng cũng hy vọng
rằng sẽ đóng góp thành một tinh thần chung để giải quyết tranh chấp qua
những phương tiện hiếu hoà.
Cũng nên ghi nhận là không phải bất cứ tranh chấp nào cũng có thể
giải quyết bằng phán quyết tư pháp. Có nhiều khía cạnh của tranh chấp
thuần về chính trị, không liên quan đến luật mà toà án có thể áp dụng.
Tạo điều kiện cho toà án làm người hoà giải tranh chấp - đặc biệt nếu hệ
thống tư pháp vẫn còn là một thể chế non yếu - tạo nguy hiểm chính trị
hoá cho thể chế làm mù quáng cho chính trị, làm suy yếu uy tín và tinh
thần độc lập của hệ thống tư pháp. Nhiều phân tích cho thấy là việc
chính trị hoá Tòa Bảo Hiến Liên Xô trong những năm đầu tiên của thập
niên 1990 taọ một đặc thù chuyên môn hoá, nhưng lại làm thể chế này kém
hiệu năng trong khi chuyển hoá dân chủ.
Chấp Pháp và Tư Pháp Hình Sự
Uy lực pháp quyền đòi hỏi một hệ thống tư pháp hình sự phải ngăn trở
và trừng phat cướp bóc và các hành vi bạo lực, cho phép người dân có cảm
tưởng sống trong an lành. Đồng thời, hệ thống tư pháp hình sự phải
tránh bị lạm dụng cho các mục tiêu chính trị và phải tuân thủ quyền luật
định về thủ tục hình sự đuợc quốc tế công nhận. Nói một cách khác, nếu
các xung đột xã hội và xung đột tuơng tự trầm trọng khác được giảm
thiểu, người dân yên tâm khi không còn bị băng đảng hay chính quyền sách
nhiễu.
Một vấn đề phụ thuộc khác mà các quốc gia thoát khỏi chiến tranh hoặc
do chuyển chế độ từ đàn áp sang dân chủ là có sự đình trệ trong khả
năng chấp pháp. Thời kỳ chuyển tiếp kéo dài trong khi các lực lượng công
an và cảnh sát thuộc chế độ củ bi loại trừ hay suy yếu, trong khi chế
độ mới vừa thành hình. Duy trì hệ thống tư pháp và cảnh sát chế độ củ,
một vài thành phần này tạo vấn đề hơn là đem lại giải pháp, làm giảm đi
uy tín cho chế độ mới và đe dọa khả năng chính quyền mới trong việc điều
hành thời chuyển tiếp. Việc huấn luyện nhân viên, xây dựng hàng ngũ
lãnh đạo và một hệ thống tư pháp hình sự mới và có uy tín phải mất nhiều
năm.
Chỉ nêu Liên Xô, Georgia, Nam Phi và El Salvador làm thí dụ cho thấy
thời gian tụt hậu gây một khoảng trống về an ninh tác hại hơn cho các
yếu tố hình sự. Trong từng quốc gia trong bốn thí dụ này, thời kỳ chuyển
tiếp làm tăng tỷ lệ tội phạm hình sự, một khuynh hướng tương tự cũng
xãy ra tại nhiều nuớc khác đang trong thời hậu chiến. Trong khi nỗi lo
sợ hàng ngày người dân bị bắt trong binh lửa chiến tranh hoặc bị đàn áp
thô bạo của chính quyền vì quan điểm chính trị được giảm đi đáng kể,
thay vào đó họ lại lo sơ vì trộm đạo, cướp bóc và băng đảng hoành hành
trong tình trong vô luật pháp của thời kỳ chuyển tiếp.
Trong một số trường hợp, những phạm nhân mới nay là các quân nhân và
sĩ quan giải ngũ sau khi chiến cuộc kết liễu, họ còn vũ khí trong tay và
chưa có cuộc sống mới. Thí dụ như tại El Salvador, một cuộc điều tra
chính thức đã kết luận rằng đội thám tử cảnh sát đã giết hàng ngàn người
theo cánh tả, trở nên ít cực đoan hơn trong chiến tranh và tự biến dạng
thành những băng đảng mới mà không sợ hãi và không được kiểm soát vì hệ
thống tư pháp hình sự thiếu hiệu năng. Vì không thể kiểm soát, nên hình
sự gia tăng trầm trọng tạo đe doạ thực sự cho một nền hòa bình chưa
được ổn định.
Thiếu một cơ chế chấp pháp hữu hiệu, nên bối cảnh hậu chiến đem lại
một mãnh đất màu mở cho những họạt động hình sự liên quốc gia gia tăng,
rất khó bứng gốc, làm suy yếu không những cho quốc gia liên hệ, mà còn
ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Thiếu một chính phủ có hiệu năng thời
hậu chiến tại Kosovo là một thí dụ rõ nhất. Tháng giêng năm 2001, chính
phủ nước Anh đã gởi một toán tình báo đặc biệt tới Kosovo để theo dõi
băng đảng hình sự chuyên lo về đưa người nhập cư bất hợp pháp, mãi dâm
và ma túy vào Tây Âu. Bất lực của chính phủ thời hậu chiến trong việc
giải quyết vấn đề được hữu hiệu tạo ra một hình thức tự chấp nhận trước
các vấn đề tội phạm liên quốc gia và có thể gây nguy hiểm cho những viện
trợ quốc tế và đầu tư mà họ đang cần đến.
Để giải quyết những vấn đề này, việc tái thiết hậu chiến phải nhanh
chóng thiết lập những toà án không tham nhũng và không bị băng đảng hình
sự đe doạ; lực lượng cảnh sát cần được hỗ trợ, cá nhân các giới chức
phải bị quy trách khi phạm pháp; huấn luyện và giải trình vấn đề chấp
pháp và hệ thống tư pháp hình sự cần khởi động ngay sau tranh chấp chấm
dứt. Thí dụ như thoả ước Dayton nỗ lực kết hợp bài học này, giải quyết
minh bạch từng điểm một trong thời hậu chiến.
Hơn nữa, trong những năm gần đây, nhiều hoạt động cảnh sát quốc tế đã
gia tăng một cách đáng kể, trở thành một giao điểm chung trong thời hậu
chiến nhằm giúp tránh những chấp pháp vô hiệu. Năm 2002, có khoảng 9000
cảnh sát dân sự của LHQ được huy động tới nhiều địa điểm khác nhau để
hỗ trợ tái thiết. Tổ chức và quy định phạm vi hoạt động cho cảnh sát dần
dần trở nên có tính chuyên nghiệp hơn, nhưng vẫn còn nhiều thách thức
trong các phạm vi tuyển dụng, huấn luyện, phối hợp và xác minh luật pháp
cần áp dụng cho các lực lượng này trong tuơng lai.
Tính Minh Bạch và Khả Đoán
Khi hành vi của đối thủ được minh bạch và khả đoán, thì sẽ làm giảm
đi khả năng của các xung đột quốc tế, điều này đã được minh chứng và
chấp nhận. Những biện pháp nhằm xây dựng niềm tin đã được đề ra làm giảm
bớt xung đột tại nhiều địa phương. Một vài biện pháp có thể khuấy động
phe đối nghịch (thí dụ như chuyển quân hay thử hoả tiển), nhưng khi tuân
thủ những thủ tục quy định lại làm dễ dàng hơn cho việc thông cảm nhau
và giảm bớt nghi ngờ.
Theo truyền thống, giới ngoại giao và những người chuyên trách về
ngăn ngừa và giải quyết xung đột đã áp dụng nguyên tắc này trong các
xung đột giữa các quốc gia. Khi những xung đột này ngày càng tăng lên
giữa các quốc gia, nguyên tắc này vẫn còn giá trị. Tín cẩn sẽ gia tăng -
nghi ngờ còn tiềm tàng, ngạc nhiên và căng thẳng sẽ giảm khi các phe
được yêu cầu công khai các hoạt động. Tinh thần thượng tôn pháp luật đòi
hỏi chính quyền chấp nhận nguyên tắc minh bạch và khả đoán và luật pháp
đề ra những cơ chế đảm bảo nguyên tắc này. Nguyên tắc này đòi hỏi là
luật pháp được chuẩn nhận thông qua một tiến trình công khai của một cơ
chế đại nghị, mọi luật lệ phải được công bố, luật không thể hồi tố, cơ
quan công quyền hành sử theo đúng luật quy định, toàn thể hệ thống chịu
sự tài phán tư pháp để nhằm đảm bảo thi hành pháp luật. Friedrich von
Hayek, kinh tế gia bảo thủ người Aó có nói:
Không có gì phân biệt rõ ràng hơn giữa một quốc gia tự do với độc tài là tinh thần thượng tôn pháp luật của chính quyền các quốc gia tự do. Gạt bỏ mọi đặc điểm kỹ thuật luật học, nguyên tắc này có nghĩa là mọi hành vi của chính quyền phải bị ràng buộc bởi luật pháp quy định và phải công bố trước - luật pháp có thể được tiên đoán trước một cách chính xác là chính quyền sữ dụng uy lực cuỡng chế trong trường hợp quy định và mọi kế hoạch cá nhân phải dựa trên suy đoán này.“
Kiểm Soát Bộ Máy Hành Chánh
Ngay khi công nhận có mối quan hệ giữa việc đảm bảo tinh thần thượng
tôn pháp luật để tránh xung đột lan rộng, thì quan tâm và hỗ trợ hải
ngoại chỉ nhắm vào công tác tư pháp và lập pháp. Đây là các thể chế chủ
yếu, nhưng khi kỹ thuật thăng tiến và xã hội trở nên phức tạp hơn, quốc
hội có khả năng giải quyết các vấn đề trong một tầm mức ít hơn mà chính
quyền phải đối phó. Nói chung, cơ quan lập pháp chỉ phác hoạ những nét
chính, không thể quy định hết các chi tiết cũng như các vấn đề áp dụng
cần phải có một cơ quan hành chánh của một nhà nước hiện đại.
Tại nhiều quốc gia, người dân bình thường sẽ trải nghiệm là có tinh
thần thượng tôn pháp luận hay không (từ đó mà họ có cảm tưởng ít nhiều
là mình có bị loại bỏ ra khỏi hệ thống hay không) thường là không thông
qua những tương tác với tiến trình lập pháp và tư pháp, cũng không dính
dáng đến bất cứ một vấn đề hiến định lớn lao nào, nhưng phải đương đầu
với nhà nước hành chánh. Giải quyết vấn đề an sinh xã hội, nhận giấy
phép được câu cá hay xin trợ cấp gia đình, nhận giấy phép xây nhà hay
nhà thờ hoặc tham gia vào một chính đảng, nhận giấy chứng thực của nhà
nước hay giấy tài trợ cho một trường học ngôn ngữ thiểu số, - tất cả các
loại vấn đề này buộc dân chúng phải tiếp xúc với nhà nước. Nói chung,
mọi vấn đề này không nằm trong phạm vi trách nhiệm của cơ quan lập pháp.
Trừ khi nào những quyết định hành chánh tôn trọng luật pháp, nếu
không, mối quan hệ này không thể bị công luận kiểm soát, từ đó dễ dàng
đưa tới tham nhũng, tráo trở và trở thành hình sự. Theo hầu hết các
chuyên gia quốc nội và quốc tế tham gia tư vấn chương trình tái thiết
hậu chiến, cải cách thủ tục hành chánh không quá thu hút như soạn thảo
hiến pháp hay bầu cử, từ đó họ nhận định sai lầm là không nên quan tâm,
mà đây là một lĩnh vực, dù không đáng kể, nhưng chính quyền phải hứng
chiụ nhiều khiếu nại và chống đối, kể cả âm thầm và không có chủ tâm.
Tại Peru vào năm 1984, người ta tin là có mối quan hệ giữa mức độ tín
nhiệm chính quyền và hiệu năng của đối kháng bạo động. Peru có một cơ
quan lập pháp dân chủ có hiệu năng, luật pháp được chuẩn nhận và công bố
sau khi thảo luận công khai. Đối với giới quan sát, thì hệ thống này đã
tuân thủ pháp luật.
Dù đạt được về hình thức, nhưng kinh tế gia Hermano de Soto chứng
minh là có 99 % luật lệ quy định đời sống hằng ngày chưa bao giờ được
quốc hội thông qua. Thay vào đó, những luât lệ này là kết của của những
văn kiện lập quy do cơ quan hành pháp ban hành trong một tiến trình lập
quy mà không được công luận tham gia, không có kiểm soát về mặt thủ tục
hay bất cứ kiểm tra nào. Tình hình này không phải chỉ độc nhất có tại
Peru. Khi quyền lực của các cơ quan hành chánh không được kiểm soát
trong thời kỳ tái thiết, tình trạng này làm cho cá nhân và đoàn thể cảm
thấy bị mất quyền trong hệ thống, tăng trưởng kinh tế cho cá nhân và nhà
nước bị tổn hại, luật lệ và các quyết định hành chánh gây ra phân biệt
dựa trên phe cánh chính trị, sắc tộc, tôn giáo, chủng tộc hay điạ dư.
Khi áp dụng tinh thần thượng tôn pháp luật, những người tham gia vào
việc xây dựng hoà bình trong thời tái thiết hậu chiến sẽ cần tập trung
vào hai thách thức khẩn thiết đặc biệt cho tiến trình hoà giải. Vấn đề
này sẽ được đề cập trong hai phần sau.
(còn tiếp)