Trần Độ
(Nhật ký Rồng Rắn, Phần II, Chương 3)
Diễn Đàn : Nhân ngày giỗ tướng Trần Độ cách đây không lâu, tiếp
theo đó lại có những đề xuất chính trị của Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc
Nhuận; một cuộc thảo luận về dân chủ đa nguyên đang dấy lên. Chúng tôi
vừa được nhà nghiên cứu Lữ Phương gửi đến hai tài liệu : "một của Trần
Độ đã mất và một của Nguyễn Kiến Giang đang xoay xở khó khăn trên giường
bệnh." như sự góp lời đối thoại trước thời gian, trên những nền gốc
tinh thần... Cùng với tài liệu này chúng tôi cũng phát hành "Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam" của Nguyễn Kiến Giang.
Tết Tân Tỵ ngày 5 tháng giêng, (ngày 28.1.2001)
Nhân dịp Tết, tôi lục các bài viết cũ, đọc lại chơi, tiện thể lục
được bức thư anh viết cho tôi từ đầu năm 1999, sau khi anh đã đọc xong 2
bài bút ký "Một Cái Nhìn Trở Lại" của tôi, và biết tin tôi đã bị (hay
được) khai trừ.
Ngay từ trang đầu của thư anh, tôi thấy anh đã hiểu rõ tâm can tôi.
Anh viết rằng: "Nếu có một cái gì đó có ý nghĩa mà Đảng cho anh, thì đó
là cái lý tưởng cực kỳ tươi đẹp để anh đi vào tù đày và chết chóc thôi.
Anh có bảo vệ Đảng thì cũng chỉ bảo vệ cái lý tưởng đã trả bằng máu ấy.
Chính là với lý tưởng ấy, thái độ của anh là nhất quán trước sau. Trước
đây Đảng có một thời đẹp đẽ thì bây giờ anh muốn Đảng giữ gìn mãi mãi
điều đẹp đẽ ấy”. Anh đã nói rất trúng tâm tư của tôi.
Tôi không có điều kiện để nghiên cứu sâu vào các vấn đề lý thuyết,
tuy rằng tôi cũng đọc được và được nghe giảng khá nhiều nhưng tôi chỉ
“vận dụng những ý tưởng có trong sách vào cuộc đời”, và nhìn vào thực
tiễn của cuộc đời mà suy ngẫm. Tôi đọc lại bút ký của tôi, tôi lại càng
thấy rõ té ra hơn chục năm nay, có thể cả mấy chục năm nay, tôi cứ trăn
trở chỉ có một điều, và vẫn cứ tiếp tục trăn trở về cái điều đó, càng
ngày càng sâu sắc, càng ngày càng day dứt đau đớn. Cái điều đó tôi đã
khái quát vào bốn câu mà anh có nhắc đến:
Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ác xoá đi thay bằng Cực Thiện
Tháng ngày biến hoá, Ác luân hồi.
Với tâm trạng ấy tôi rất tâm đắc với mấy câu trong bài thơ "Cay đắng thay” của Bùi Minh Quốc.
Cái guồng máy nhục mạ con người
Mang bộ mặt hiền lành của người cuốc đất
………….
Cay đắng thay
Mỉa mai thay
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính bộ máy này.
Tôi cứ nghiền ngẫm mãi cái cay đắng và mỉa mai đó và ngày ngày, tháng ngày đau khổ về cái cay đắng ấy.
Không biết đã bao nhiêu lần, tôi muốn giải đáp mấy câu hỏi ... cay đắng ấy:
Cuộc cách mạng ở Việt Nam, rút cục đã xoá được cái gì, đập tan được cái gì? và đã lập nên được cái gì, xây dựng được cái gì?
Rõ ràng ta đã xoá được cuộc đời nô lệ mất nước, nhục nhã. Đời sống
nhân dân giảm được đói nghèo dốt nát. Mới giảm được thôi, chứ chưa thoát
được hẳn đói nghèo và "dốt nát", nghĩa là ta còn quá lạc hậu.
Ta đã đập tan được bộ máy đàn áp, nô dịch, bóc lột, xoá được nỗi nhục
mất nước và ta đã xây dựng được một bộ máy như thế nào? và một xã hội
như thế nào? Những tiêu ngữ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, Dân chủ Cộng
hoà, và mục tiêu một nước độc lập, thống nhất, hoà bình, dân chủ giàu
mạnh, đã thực hiện được đến đâu???
Trong các mục tiêu lý tưởng của ta thì lý tưởng lớn nhất, tha thiết nhất, bao trùm nhất là tự do dân chủ.
Nhưng hiện nay, ta đã có một bộ máy nhà nước có mấy đặc điểm:
To lớn, cồng kềnh, chồng chéo và do đó ít hiệu quả, nhiều mặt bất lực.
Làm được một số việc xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhưng quá
kém trong việc đưa đất nước phát triển nhanh. Đất nước ngày càng phát
triển chậm chạp và tụt hậu xa so với các nước láng giềng trong khu vực.
Nổi bật lên là một bộ máy độc đoán, độc tài toàn trị, đàn áp thẳng
tay các ý kiến khác. Có một đội ngũ “lưỡi gỗ” rất đông đảo, chuyên “ngụy
biện”, “nói lấy được”, “nói bừa bãi”, “trắng trợn” bất chấp lẽ phải,
đạo lý và cả luật pháp, và có lúc dùng nhiều thủ đoạn như "lưu manh".
Trong khi ấy, bộ máy đã tạo nên một xã hội không có tự do dân chủ,
đầy tệ nạn tham nhũng, đầy tệ nạn xã hội, làm tất cả mọi người trong xã
hội không lúc nào được yên tâm và thường xuyên lo lắng, sợ hãi. Đó, ta
đã xây dựng nên một bộ máy như vậy và một xã hội như vậy đó.
Bao nhiêu những điều tốt đẹp xuất hiện sau cách mạng tháng Tám, ta
tưởng nó sẽ mở rộng và nâng cao thì nay tình hình lại phát triển ngược
lại.
Từ một Đảng chịu gian khổ hy sinh để giải phóng nhân dân, nay trở
thành một Đảng cầm quyền xa rời nhân dân, cai trị nhân dân, bắt nhân dân
phải sống hết thảy theo ý của Đảng: nhân dân bị tước hết mọi quyền tự
do dân chủ. Tất cả quyền và lợi trong xã hội, thâu tóm trong tay Đảng và
cụ thể là trong tay một nhóm đảng viên có địa vị ở các cấp. Đảng tự do
yêu cầu dân đóng góp và tự do sử dụng mọi sự đóng góp của dân, không có
tổ chức và lực lượng nào giám sát và kiềm chế.
Đảng nói những lời hay, làm ra Hiến pháp và luật pháp có nhiều điều
hợp lý, nhưng bộ máy của Đảng đều làm ngược lại Hiến pháp và luật pháp,
bất chấp đạo lý.
Đảng còn làm ngược lại cả Điều lệ của chính mình như tự nhiên đẻ ra
chế độ cố vấn; Bộ chính trị và Trung ương quyết định những điều cấm đoán
đảng viên ngoài quy định của Điều lệ như là tước cả quyền công dân của
đảng viên.
Đảng luôn tạo ra một không khí khủng bố đối với bất cứ ai có chính
kiến độc lập, làm cho xã hội khô cằn, Đảng bưng bít và cấm tất cả những ý
kiến dồi dào phong phú để đưa đất nước tiến lên.
Thế là Đảng đã tạo ra ở Việt Nam một xã hội đầy tham nhũng, phản dân
chủ (vì độc tài độc đoán và toàn trị), đầy dối trá lừa bịp (vì nói một
đàng làm một nẻo), đầy thủ đoạn (nịnh nhau, hất nhau và hại nhau). Bất
cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, ở bất cứ người nào, ta cũng nghe thấy được
những lời phàn nàn về sự không dân chủ, tàn bạo, lừa bịp, dối trá; về
những hiện tượng lưu manh, hãnh tiến. Trong bút ký của tôi, tôi đã nói
nhiều lần.
Trước 1945, xã hội ta có một bộ máy của thực dân phong kiến có đủ các
đặc điểm của sự tàn bạo, dã man, của sự vơ vét, bóc lột và xa hoa hưởng
thụ, của sự lừa bịp, dối trá, thủ đoạn đểu giả.
Tôi “trọn tuổi xuân hiến dâng cuồng nhiệt” để tham gia đập tan bộ máy
đó và tích cực tham gia xây dựng bộ máy mới, mà ngày nay ta gọi là "của
dân, do dân, vì dân", có những nét đẹp như trong những ngày đầu sau
cách mạng tháng Tám 1945 và một xã hội, mọi người thương yêu nhau, tôn
trọng nhau. Tôi đã mơ ước hững nét đẹp ấy sẽ được mở rộng và nâng cao
tạo nên một xã hội lý tưởng.
Nhưng rồi …
Cái không giống với mơ ước thì nhiều và những cái giống với cái đã được đánh đổ thì lại càng ngày càng nhiều.
Và những gì trước đây ta khinh bỉ, chửi rủa và chống phá thì ngày nay những cái đó lại xuất hiện nhiều và ngày càng nâng cao.
Như vậy là ta lại xây nên chính cái mà ta đã đập tan. Ta đã làm cho
xã hội hiện nay lại có đủ các đặc điểm của bộ máy ta đã đập tan, của cái
xã hội ta đã phá bỏ.
*
Bộ máy cai trị bây giờ ngày đêm chỉ lo xây dựng bộ máy tuyên truyền,
lo cổ động rầm rộ, dùng những "lưỡi gỗ" xây dựng và truyền lan các thứ
"lý luận" "nói lấy được", dùng mọi thủ đoạn lừa bịp, dối trá, nguỵ biện
để nhằm một mục đích duy nhất là duy trì và giữ vững bộ máy cai trị mà
họ gọi là "sự lãnh đạo của Đảng”. Suốt năm suốt tháng họ tổ chức đủ thứ
đại hội, kỷ niệm, lễ hội…để làm cho mọi người đều thấy đang sống trên
những thắng lợi, và mọi thắng lợi từ trước đến nay đều do bộ máy này tạo
nên, dân phải biết ơn bộ máy này. Tất cả những ý nghĩ, tư tưởng chệch
chút ít so với tư tưởng chính thống đều bị kết tội “chống đối” nặng nề.
Do đó, trong thực tế bộ máy này là bộ máy phá dân chủ, phá dân chủ một cách trắng trợn, tinh vi và tàn bạo.
*
5.2.2001
Như thế là tôi cũng như anh, ta đứng trước một sự biến động, một sự
biến chuyển và biến dạng, là một Đảng từ một tổ chức gồm những con người
chịu hy sinh gian khổ, phấn đấu để đập tan một bộ máy thống trị gian
ác, giải phóng nhân dân, rồi sau khi đập tan được bộ máy ấy thì lại trở
thành một bộ máy cai trị, thống trị nhân dân. Nói thật gọn, là từ người
giải phóng biến thành kẻ thống trị. Khi là người giải phóng thì mọi
nguyện vọng, mục tiêu, tâm lý và tình cảm là của người giải phóng, và
khi là kẻ thống trị thì sẽ có đầy đủ nguyện vọng, mục tiêu, tình cảm và
tâm lý của kẻ thống trị. Đó là "cố giữ vững địa vị thống trị của mình",
tình hình ấy hình như không phải của riêng Việt Nam. Đó là một biến
chuyển tất yếu. Xem ra không ai cố ý, không ai có ý kiến trong việc này,
không ai (kể cả những người chủ chốt) tự giác được trong quá trình
chuyển biến này, tất cả đều bị cuốn vào sự vận hành của một cỗ máy khổng
lồ.
Vậy đâu là nguồn gốc của sự biến chuyển này. Có thể nói sự chuyển biến này có nhiều nguồn gốc:
Có nguồn gốc thứ nhất là từ ở những học thuyết.
Rõ nhất là học thuyết về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản.
Học thuyết này được người vận dụng nó đưa tới những chủ nghĩa kinh khủng
như “chủ nghĩa thành phần”, “chủ nghĩa công nông”, “chủ nghĩa lý lịch”…
Các thứ chủ nghĩa ấy làm cho học thuyết giai cấp bị méo mó thành bất
nhân bất nghĩa. Ta có thể tin một cách chắc chắn rằng nếu Mác và Lênin
(là những trí thức lớn) còn sống đến bây giờ thì các ông tổ đó cũng
không thể chấp nhận các thứ chủ nghĩa “vô học” đó.
Học thuyết ấy bị méo mó ngày càng lớn, càng cực đoan, nó thành ra
kiểu Mao-ít, cao hơn nữa là kiểu Pôn Pốt. và trở thành những tội phạm
ghê tởm của loài người.
May mà Việt Nam ta chưa đi tới chỗ đó.
Còn nhiều vấn đề học thuyết khác, nhiều cách lý giải những khái niệm
không theo kịp sự biến đổi tiến bộ của nhân loại, vì không theo kịp mà
thành ra sai lầm, thiếu sót. Những khái niệm cơ bản như “lao động”, “bóc
lột”, “sở hữu”… cứ bị quan niệm như cũ, như thế tất phải đưa tới những
cách xử lý cứng nhắc, không đúng và nhiều tai hại. Phải thấy rõ rằng
những đầu óc giáo điều đáng ghê tởm biết là chừng nào!
Về nguyên lý tổ chức của Đảng.
Khi cần tổ chức Đảng thành một Đảng chiến đấu thì cần có những nguyên
lý tổ chức thích hợp với hoàn cảnh chiến tranh và cách mạng. Những
nguyên lý ấy không thể thích hợp với thời hoà bình xây dựng. Nhưng khốn
thay, vẫn không có sự phân tích lại để điều chỉnh cho hợp lý. Vì vậy
Đảng cộng sản Việt Nam vẫn cứ như mắc trong mớ bòng bong những mâu thuẫn
khi đề ra yêu cầu cho đảng viên của Đảng: lúc thì đảng viên phải làm
giàu để làm gương cho mọi người, và cũng để bảo đảm cho cuộc sống gia
đình, lúc thì lại cấm đảng viên làm kinh tế tư nhân. Cho nên có những
đảng viên làm kinh tế đã phải thốt lên: "Tôi phải ra khỏi Đảng thôi".
Cái kiểu gò bó bảo thủ, giáo điều tạo nên một lớp người khá đông đảo chỉ
biết “ngu trung” (nghĩa là trung thành một cách ngu xuẩn), mất hết óc
xét đoán để tìm hiểu thực tiễn đời sống mới đang tiến triển mạnh mẽ, làm
cho cả Đảng bị rơi vào trạng thái tê liệt, tư duy ngày càng xa cuộc
sống và do đó càng xa dân.
Xa dân mà lại cai trị dân thì ngày càng đối lập với dân.
Nguồn gốc thứ hai của tình hình biến đổi xã hội, đó là vai trò của những người có trách nhiệm chủ chốt.
Những người này càng về sau càng là những người ít học, lại ít được
tôi luyện, thành ra những người thô sơ đơn giản. Những người đó có trách
nhiệm lớn, nhưng lại vẫn mang đủ trong mình bản tính tiêu cực của người
bình thường: hám lợi, hám danh, thích quyền, ích kỷ, v.v. Vì thế, những
người đó trở thành thủ phạm của mọi tội lỗi: dốt nát, quan liêu, tham
nhũng, mất đoàn kết, bè phái. Đó là những tội không sao xoá bỏ được, chỉ
có ngày càng nặng thêm, và kết cục là toàn bộ cơ chế quyền lực không có
một sức mạnh nào làm phanh hãm và giám sát nó. Sức mạnh giám sát ấy chỉ
có thể là sức mạnh của một chế độ dân chủ. Dân chủ phải là vấn đề của
một chế độ, chứ không phải chỉ là mấy cái công tác lặt vặt như “dân chủ
cơ sở”, “lấy ý kiến việc nọ việc kia”, “ghi điều nọ điều kia vào Hiến
pháp, nghị quyết và luật pháp”, v.v.
Ta không thể mơ tưởng có những ông Thánh để thực hiện những học
thuyết và nguyên lý. Rút cục thì vẫn là những con người trần tục phải
thực hiện các học thuyết ấy, mà con người trần tục thì có đầy đủ những
“cái trần tục”, làm hỏng học thuyết. Phải có một chế độ, một cơ chế, một
chiến lược dân chủ, có tác dụng hạn chế các tệ nạn quan liêu độc đoán
và tuỳ tiện.
Sự vận dụng các nguyên lý của học thuyết và của tổ chức, tuỳ thuộc
vào cá tính của những con người chủ chốt. Người lãnh đạo như Hồ Chí Minh
vận dụng các nguyên lý của học thuyết và nguyên tắc tổ chức có lẽ sẽ
mang lại những hệ quả kém xấu hơn. Ngược lại những người không đủ trình
độ và nhiều ham muốn cá nhân sẽ đưa đến những hậu quả ngày càng tệ hại.
Nguồn gốc là ở “trình độ” cộng với lòng “ham muốn quyền và lợi” của cá nhân, hai cái đó có lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất.
Những tình trạng yếu kém và khuyết điểm trong quản lý, cai trị và
tình trạng xã hội không tốt đẹp. Không thể tìm nguyên nhân gần được, mà
phải tìm từ nguồn gốc xa, ở chỗ Đảng đã xây dựng nên một thể chế phản
dân chủ và trọng quyền lực. Những câu chữ tốt đẹp như “nhà nước của dân,
vì dân, do dân” và “cán bộ nhà nước phải là đầy tớ trung thành của nhân
dân” chỉ còn là những câu nói mỉa mai, những cái màn mỏng manh che giấu
các thói hám quyền tham lợi, chia chác và giành giật nhau ghế ngồi và
danh vị.
Thật ra, cuộc cách mạng với những lý tưởng cao đẹp của nó đã bị phản
bội. Trốtsky là người đã nhận ra điều này ở Liên xô từ năm 1936. Tôi
cũng dần dần thấy ra điều này từ vài chục năm nay.
Tôi không thể trung thành với sự biến dạng này.
Tôi vẫn cầu mong Đảng này tự phê bình mà nhận ra sự thật. Như thế tốt
cho Đảng, và quan trọng hơn là tốt cho đất nước. Nhưng tôi lại cũng
thấy rằng cái Đảng này, với thể chế và trình độ của nó hiện nay, không
thể, không dám, và không muốn tự phê bình. Cuộc vận động chỉnh đốn Đảng
có tự phê bình chỉ là một sự “gãi ghẻ” thôi.
Tôi không thể không trung thành với lý tưởng tốt đẹp của thời tuổi
trẻ, thời Đảng là người giải phóng. Phải chăng quy luật của lịch sử các
triều đại là cứ lúc bắt đầu thì nhiều tốt đẹp, tiến bộ thông minh, sáng
suốt? Thế rồi có những thắng lợi được ca ngợi nhưng dần dần cứ sa sút,
kém cỏi, dốt nát, sa đoạ, xuống cấp dần, đi đến phản bội.
Cái triều đại Đảng cộng sản này cũng đang thế chăng? Đảng cộng sản cứ
để mình bị sa vào cái quy luật suy thoái ấy hay muốn cứu mình thoát
khỏi sự suy thoái?
Ngày nay Đảng này muốn bước ra khỏi con đường phản bội cách mạng thì phải:
1. Xác định cho đúng vị trí khiêm tốn của mình là một bộ phận của dân
tộc, thực hiện lãnh đạo đất nước bằng cách tôn trọng tất cả mọi người,
nhất là những người trí thức, những người tài năng có chính kiến độc
lập.
2. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, thực thi đầy đủ các quyền dân chủ,
đặc biệt là dân chủ về tự do ngôn luận và tự do bầu cử, nhân dân được tự
do làm ăn.
3. Phải để cho mọi tổ chức, từ Chính phủ, Quốc hội, Toà án, cho đến
các tổ chức xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức của nó có quyền
độc lập quyết định những vấn đề và hoạt động của mình. Phải để cho công
dân, nhất là thanh niên, được suy nghĩ độc lập, có tư cách độc lập. Muốn
thế phải xoá bỏ quyền lực của cơ quan tư tưởng và văn hoá của Đảng, thu
hẹp quy mô, ảnh hưởng và định chức năng rõ rệt của các lực lượng Công
an.
Nhà nước phải được chỉnh huấn về tư tưởng và tác phong “đầy tớ của nhân dân”
Đảng phải tách khỏi nhà nước, không làm những việc thay cho nhà nước,
thay Chính phủ, Quốc hội phải được thành lập bởi những người thực sự có
đức, có tài và do dân thực sự lựa chọn vô tư, không có bất cứ sự “sắp
xếp” và “hiệp thương” nào.
4. Cụ thể là phải sửa ngay Luật báo chí, xuất bản, công nhận quyền có
báo và xuất bản tư nhân. Các báo chí có quyền độc lập của mình, không
chịu sự “chỉ đạo” và kiểm soát của bất cứ cơ quan nào.
21.2.2001
Đúng như anh nói, tôi có một quãng đời tươi đẹp, sống với những lý
tưởng cao thượng, tốt đẹp và ở trong một Đảng cũng rất cao đẹp.
Và tôi mong muốn cho những cao đẹp đó cứ tiếp tục mãi mãi và ngày càng cao lên.
Nhưng thực tiễn cuộc sống lại diễn ra ngược lại.
Đảng cộng sản từ một Đảng người-giải-phóng đã trở thành một Đảng cai
trị, thực hiện một nền thống trị không dân chủ và phản dân chủ. Đảng
thực hiện độc tài và toàn trị. Đảng thực hiện đúng cái mà Đảng đã từng
phê phán, đó là chế độ Đảng trị. Có người không thích chữ Đảng trị,
nhưng chữ đó chỉ là phản ảnh và diễn tả đúng cái thực trạng mà Đảng đã
tạo ra, không hơn không kém.
Đảng đang thực hiện một nền thống trị khe khắt, kiểm tra từng người
trong toàn xã hội, kiểm soát và can thiệp mọi chi tiết trong cuộc sống
của xã hội, và điều dã man và tàn bạo nhất là độc tài về ý thức hệ. Bất
cứ một khác biệt nào đều bị quy vào là chống đối, là phản động, là tội
phạm. Hệ quả của chế độ này là trong xã hội không ai dám nói khác, không
ai dám có ý nghĩ khác, hoặc ít nhất thì dù có nghĩ một đàng cũng phải
nói một nẻo. Như vậy, xã hội bao trùm một sự giả dối, lừa bịp, bao trùm
một sự sợ hãi, bao trùm một sự tê liệt, về tư duy và cả về tình cảm. Đã
có một xã hội và một chế độ, mà tôi biết có người đã khái quát (chưa
thật đúng nhưng cũng không sai).
Lưu manh hoá xã hội
Bần cùng hoá nhân dân
Nô lệ hoá con người
Bình quân hoá cá tính.
Như vậy, văn hoá chỉ còn ngày càng tàn tạ và hư hỏng. Buồn thay! Điều
đó không chỉ có tai hại trước mắt, mà còn có tác hại làm suy thoái đời
sống tinh thần của cả một dân tộc, một giống nòi.
Thực ra, chắc chắn giống nòi sẽ không để cho có sự sa sút và suy
thoái ấy. Nhưng cái chế độ thống trị của Đảng cộng sản đẻ ra hậu quả như
thế. Đảng không nhận ra điều này mà tự đổi mới, tự cách mạng, tôn trọng
chế độ dân chủ và sinh hoạt dân chủ thì Đảng sẽ bị giống nòi và dân tộc
loại trừ, Đảng không thể cứ ngoan cố và đi sâu vào vũng lầy tội ác
được. Đảng đã từng coi quyền lợi dân tộc và đất nước cao hơn sinh mệnh
của mình, chính vì vậy mà Đảng làm cho dân tộc thắng lợi. Thế mà ngày
nay, Đảng lại coi sinh mệnh và vai trò của mình quan trọng hơn cả sự
phát triển của đất nước, hơn cả cuộc sống của nhân dân, hơn cả sự nghèo
khổ và tụt hậu của đất nước. Chắc chắn là Đảng sẽ đi vào ngõ cụt của sự
tàn lụi.
Tôi nhìn thấy rõ điều này, tôi lo và buồn cho Đảng nhiều. Đảng đã
phản lại cả nguyên lý của Mác và của Lênin. Lênin chuẩn bị cho nhà nước
đi đến chỗ tiêu vong, để nhân dân tự tổ chức quản lý. Còn Đảng cộng sản
Việt Nam thì ngày càng tăng cường mở rộng quyền lực của nhà nước và bó
khuôn tất cả nhân dân vào khuôn phép và ý nghĩ của mình, làm cái việc
triệt tiêu mọi sức sống tinh thần của xã hội.
Anh có chia sẻ với tôi nỗi buồn và lo ấy không???
13.3.2001
Có người nói: Đảng là một dòng nước chảy, cái dòng nước Cách mạng
Tháng 8 và kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã chảy ra biển Đông mất
rồi. Giữa hai bờ của Đảng hiện nay là dòng nước khác, những người lớn
tuổi chúng ta chỉ có thể trung thành với cái dòng nước “ngày xưa” ấy.
Tôi thấy hình ảnh ấy khá đúng.
Tôi vẫn không ân hận gì về tuổi trẻ và lý tưởng của tuổi trẻ, tôi vẫn
tự hào với lý tưởng đó và tôi thấy tôi vẫn trung thành với lý tưởng đó,
cũng như tôi tự hào và trung thành với cái Đảng của thời xưa mà có
người gọi là Đảng của Hồ Chí Minh. Tôi không phân vân chút nào với cái
lòng trung thành và tự hào ấy. Tôi cho rằng bất kể sau này ai viết lịch
sử Việt Nam thế nào cũng không thể không có những trang đẹp nói về quãng
30 năm và 70 năm ấy.
Còn ngày nay thì cứ phải trăn trở day dứt với hiện tình, không thể nào yên được.
Cũng có người trách tôi là sao không đưa ra được một đường hướng gì,
có những biện pháp gì để khắc phục tình hình ngày nay mà đưa đất nước
phát triển mạnh mẽ lên. Còn nói về những mất dân chủ và những tệ nạn
khác thì mọi người biết cả rồi, mọi người đều “biết rồi, khổ lắm, nói
mãi”.
Ai đó mà cứ mong có người nào đó đưa ra được một đường hướng và những
biện pháp nào có hiệu lực ngay để tác động vào tình hình đất nướcthì đó
cũng là một điều ảo tưởng.
Tôi cũng đã được nghe và đọc nhiều những ý kiến đề nghị với Đại hội
IX. Tôi thấy rất nhiều ý kiến hay, nhưng ngay như riêng tôi muốn chấp
nhận một ý kiến nào cũng khó lắm. Mỗi ý kiến đều có những điều phải trao
đổi lại.
Tôi vẫn mơ ước có một sinh hoạt dân chủ thực sự, gạt bỏ mọi cấm kỵ,
mọi khuôn phép, bỏ qua những gì gọi là “vấn đề nguyên tắc” mà tổ chức
nhiều cuộc hội thảo nghe hết những ý kiến ngược nhau rồi tổ chức tranh
luận. Cuộc phát biểu và tranh luận phải được tổ chức trên các báo, phải
cho xuất hiện những tờ báo độc lập có những cây bút độc lập đề xuất và
tranh luận. Có những cuộc tranh luận công khai và độc lập trên truyền
hình.
Làm như vậy để cả nước nghe, cả nước bộc lộ ý kiến của mình.
Tôi thấy rõ như bản thân tôi, tôi có nhiều nhận xét về tình hình,
nhưng tôi thấy có những người có những nhận xét hay hơn tôi và tôi cũng
thấy rõ có nhiều nhận xét khác nhau thì thế nào cũng tìm ra được một
đường lối, một chiến lược cho đất nước đi lên, và chắc chắn nó sẽ hay
hơn nhiều cái văn kiện Đại hội IX mà báo chí đang làm rùm beng.
Tôi tin là như thế, anh Lữ Phương ạ!
T. Đ.