Cậu Ba Nguyễn Tất Thành
Ngày 4 tháng 6 năm 1911. khi xuống tàu Amiral Latouche-Tréville tại
bến Nhà Rồng Saigon để làm nghề phụ bếp, cậu thanh niên 21 tuổi tên
Nguyễn Tất Thành, lấy tên trên tàu là Nguyễn Văn Ba muốn sang Pháp để
tìm kế sinh nhai chớ chẳng phải đi tìm đường cứu nước như bọn công Sản
Đệ Tam quốc tế và Cộng sản VN bịa đặt dựng lên hình tượng để tôn thờ.
Không phải chỉ có Nguyễn Tất Thành mới đi tha phương cầu thực, mà trước
đó, người cha của ông là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, sau khi bị cách chức
tri huyện Bình Khê (Qui Nhơn) vì tội giết người khi say rượu cũng đã lưu
lạc vào Nam hành nghề bốc thuốc, được ông cử Hoành (cha của Lê Quang
Uyển, thống đốc Ngân hàng thời VNCH) cưu mang cho đến khi mất năm 1929 ở
vùng Cao Lãnh (mộ của Nguyễn Sinh Sắc sau nầy được CS trùng tu vĩ đại ở
tỉnh Đồng Tháp).
Ngày 15 tháng 9 năm 1911, sau khi vừa đến nước Pháp, cậu Nguyễn Tất
Thành đã gởi thơ cho Tổng Thống Pháp và Tổng Trưởng Bộ thuộc địa để xin
vào học Trường Thuộc địa (École Coloniale) nhưng Pháp từ chối vì Thành
chưa học hết bậc Tiểu học và muốn vào học trường nầy phải được Toàn
quyền tuyển chọn tại Đông Dương. Ngoài bức thư xin nhập học với lời lẽ
như: «Tôi muốn trở thành người có ích cho nước Pháp…», Nguyễn Tất Thành
còn gởi sau đó một bức thư cho Khâm sứ Pháp tại Huế nhờ chuyển 15 đồng
bạc Đông Dương cho cha với «giọng điệu hạ mình đối với người Pháp»
(Sophie Quinn-Judge, dịch giả Diên Vỹ & Hoài An, tr. 39) và nhờ
người anh tên là Nguyễn Sinh Khâm đang làm việc vặt ở Tòa khâm sứ nhờ
xin một lần nữa với Khâm sứ.
Từ 1912 đến 1914, Nguyễn Văn Ba phiêu lưu trên những chuyến tàu viễn duyên với nghề phụ bếp và khuân vác trên tàu, khi thì dừng chân ở New York (1912) đi ở mướn, khi đến Boston làm bánh ngọt cho khách sạn Parker House.Từ 1914 đến 1919, trở lại tên Nguyễn Tất Thành, ông sống ở Luân Đôn, ban ngày làm phu hốt tuyết, ban đêm làm phụ bếp ở khách sạn Carlton. Khi trở lại Paris tháng 6 năm năm 1919, Nguyễn Tất Thành làm quen với các nhà tranh đấu nhân quyền là Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền trong nhóm Người Annam yêu nước (Association des Patriotes annamites). Thành được nhóm Yêu nước giao nhiệm vụ đến Versailles để trao Bản thình nguyện của dân tộc Annam (Revendications du peuple annamite). Lợi dụng dịp nầy, Nguyễn tất Thành lấy tên của nhóm đổi tên của mình là Nguyễn Ái Quốc và từ đó cái tên nầy đã được sử dụng suốt 30 năm. Sau khi có Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành gia nhập, nhóm người Annam yêu nước đổi tên là nhóm Ngũ Long thì Phan Chu Trinh là người lãnh đạo tinh thần, Phan Văn Trường là người lãnh đạo đích thực, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh viết bài, Nguyễn Tất Thành cổ động bán báo, in truyền đơn.
Từ 1912 đến 1914, Nguyễn Văn Ba phiêu lưu trên những chuyến tàu viễn duyên với nghề phụ bếp và khuân vác trên tàu, khi thì dừng chân ở New York (1912) đi ở mướn, khi đến Boston làm bánh ngọt cho khách sạn Parker House.Từ 1914 đến 1919, trở lại tên Nguyễn Tất Thành, ông sống ở Luân Đôn, ban ngày làm phu hốt tuyết, ban đêm làm phụ bếp ở khách sạn Carlton. Khi trở lại Paris tháng 6 năm năm 1919, Nguyễn Tất Thành làm quen với các nhà tranh đấu nhân quyền là Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền trong nhóm Người Annam yêu nước (Association des Patriotes annamites). Thành được nhóm Yêu nước giao nhiệm vụ đến Versailles để trao Bản thình nguyện của dân tộc Annam (Revendications du peuple annamite). Lợi dụng dịp nầy, Nguyễn tất Thành lấy tên của nhóm đổi tên của mình là Nguyễn Ái Quốc và từ đó cái tên nầy đã được sử dụng suốt 30 năm. Sau khi có Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành gia nhập, nhóm người Annam yêu nước đổi tên là nhóm Ngũ Long thì Phan Chu Trinh là người lãnh đạo tinh thần, Phan Văn Trường là người lãnh đạo đích thực, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh viết bài, Nguyễn Tất Thành cổ động bán báo, in truyền đơn.
LS, Nguyễn Văn Chức kể lại lời nói của ông Nguyễn Thế Truyền: Năm
1960, cụ Nguyễn Thế Truyền ra tranh cử tổng thống tại miền Nam Việt
Nam. Tôi có đi theo anh em báo chí đến nghe Cụ nói chuyện.
Khi đuợc hỏi về những tài liệu viết bằng tiếng Pháp tại Paris ký tên
Nguyễn Ái Quốc, nhất là bản Mémorandum gửi Hội Nghị Hoà Bình Versailles
1919, cụ Truyền nói: Nguyễn Tất Thành chưa học hết tiểu học Pháp. Lúc
đó ở Paris, nhóm chúng tôi mướn anh ta đi phân phát những tài liệu đấu
tranh bằng tiếng Pháp do chúng tôi viết. Anh ta đã nhận xằng mình là
Nguyễn Le Patriot và nhận xằng mình là tác giả những tài liệu đó.(HCM,
CXXXII).
Năm 1948, lợi dụng khi Nguyễn Thế Truyền bị đày ra Côn Đảo và các
thành viên khác của nhóm đã chết, Nguyễn Ái Quốc đã gom tất cả các bài
viết của nhóm để in thành «Hồ Chí Minh toàn tập» xem như tất cả bài viết
của nhóm là bài viết của mình và 12 «toàn tập» nầy tái bản nhiều lần
được xem như những tác phẩm vĩ đại mả sinh viên học sinh VN bao thế hệ
phải đọc và học. Gian manh, lừa bịp, ăn cắp là bản chất của Hồ Chí Minh
và đồng bọn..
Chính với cái bản chất gian dối nầy mà Hồ chí Minh là nhân vật duy
nhất trên thế giới có đến 5 năm sinh khác nhau và 180 tên và biệt hiệu.
Trang mạng Báo Điện Tử Đại Biểu Nhân Dân, trong bài «Tên gọi HCM có tự
bao giờ » đã tự hào viết: «HCM đã dùng trên 180 bút danh, bí danh và mật
danh khác nhau. Bí danh HCM xuất hiện từ năm 1940 dần trở thành chính
danh luôn đi liền với tên nước VNDCCH » Trong số các bí danh trên, HCM
đã sử dụng tên Trần Dân Tiên để viết tự truyện đánh bóng mình (Những
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch) và dùng tên T. Lan (là Thái
Lan, bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai) để viết Vừa đi vừa kể chuyện. Hai
quyển sách nầy được xem như hai quyển thánh kinh, mà các nhà viết sử
trong nước và ngoài nước thường dùng để viết về HCM.
Tiến sĩ Sophie Quinn-Judge trong Ho Chi Minh; the missing years 1919-
1949 đã nhận định là những tự truyện nầy gian trá, bịa đặt « tập
hợp những khắc họa mờ ảo với những ngày tháng lộn xộn, thiếu hụt thông
tin, xây dựng những huyền thoại về HCM chứ không phải là cuốn sách có
giá trị lịch sử » (bản dịch, tr.20). Từ nhận định của học giả
Sophie Quinn-Judge, chúng tôi nghĩ rằng người đọc các quyển tài liệu về
HCM và đảng Cộng Sản VN viết bởi đa số các nhà nghiên cứu Tây Phương
phải thật dè dặt vì những người nầy thường dựa vào tài liệu cấp hai cung
cấp bởi tài liệu CS hay thiếu trung thực vì thiên Cộng hay ngây thơ
trước những huyễn hoặc tài tình của CS. Chúng tôi cần nêu tên vài tác
giả thuộc loại nầy : Jean Lacouture, Bernard Fall, Pierre Brocheux,
Daniel Hémery, William J.Duiker…
Từ khi gia nhập đảng Cộng Sản Pháp năm 1920 cho đến tháng 3 năm 1946
trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cuộc đời Hồ Chí Minh
chỉ là những năm tháng học tập, cải tạo tư tưởng dưới sự chỉ đạo của Đệ
Tam Quốc Tế Cộng Sản Liên Xô và Trung Quốc. Với sự nhuộm đỏ chủ nghĩa
Mát-Lê, Hồ Chí Minh đã đem về VN áp dụng những bài học sắt máu bạo tàn
đã được nhồi nhét qua 25 năm trong các trung tâm huấn luyện. Bởi lẽ
Staline là thần tượng của HCM mà Staline là người vô cùng tàn ác, đặc
biệt rất thù ghét cha mẹ, do đó không lạ gì khi cầm quyền, HCM và đồng
bọn đã tàn sát hơn 200 000 người trong cuôc cải cách ruộng đất (theo
Nguyễn Văn Canh. Nông dân Bắc Việt những năm 1945-1970 ; tr.202), tàn
phá hệ thống đạo lý gia đình, triệt tiêu trí thức và gây ra cuộc chiến
Nam – Bắc giết hại hàng triệu người.
Giải thích vì sao cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn
Văn Ba khi xuống tàu sang Pháp để tìm kế sinh nhai rồi lại theo Cộng Sản
và khi cầm quyền thích được xưng tụng là «Bác Hồ», bà Thụy Khuê đã
viết: « Phần lớn những người tham gia chống Pháp, từ Nho học đến Tây
học, đều học giỏi, nổi tiếng, nhưng đã gạt bỏ văn bằng sang một bên để
dấn thân. HCM là một trường hợp đặc biệt, dù con quan nhưng sớm bỏ học,
trình độ quốc ngữ kém, tiếng Pháp sơ sài, ông đã sống cực khổ, làm bồi
bếp suốt quãng đời thanh niên từ 1911 đến 1919 trước khi tới Pháp. Tại
Pháp cũng chỉ có 2 năm ở nhà Phan Văn Trường là khá, sau này khi ra
Compoint, một khu nghèo thợ thuyền sống rất cơ cực, có mặc cảm sâu xa
đối với bạn đồng hành, trí thức. Đó là lý do khiến Nguyễn Tất Thành theo
CS, mặc dù ông chưa biết lý thuyết CS như thế nào. Sau nầy, khi lên cầm
quyền, việc đầu tiên ông bắt mọi người phải kính nể gọi ông bằng bác.
Đối với trí thức, ông dành cho họ mọi sự nhục nhằn mà ông đã gánh chịu
trong suốt cuộc đời thanh niên » (Thụy Khuê. Nhân văn giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, tr.501).
Mặc dù được CS lừa bịp tôn vinh là cha già dân tộc, không vợ không
con để làm cách mạng, nhưng thực tế Hồ Chí Minh là người vô đạo đức. Hồ
Chí Minh sống chung ít nhất với 7 người đàn bà, không kể những thiếu nữ
hộ lý. Khi ở Paris, lúc Nguyễn Tất Thành làm nghề rửa ảnh, ông sống với
một đảng viên đảng CS Pháp tên là Marie Brière (1921) ; lúc ở Quảng Châu
với tên Lý Thụy, ông kết hôn với Tăng Tuyết Minh (1926) ; lúc ở
Hongkong và Moscou (1930-33), ông sống với Nguyễn thị Minh Khai (sau đó,
năm 1935, Minh Khai kết hôn chính thức với Lê Hồng Phong). Ngoài ra lúc
ở Moscou, ông cũng có liên hệ tình cảm với Vera Vasilieva, cán bộ Nga
đặc trách tổ chức Cộng Sản Quốc Tế. Cuối năm 1940, Nguyễn Tất Thành đổi
tên là Hồ Chí Minh về nước lần đầu tiên (1941) đóng ở Pắc Pó (Cao Bằng),
ông sống với 2 nữ cán bộ trẻ là Đỗ thị Lạc, có một đứa con gái, và Nùng
thị Ngác (sau ông cho đổi tên là Nùng thị Trưng, cử làm chánh án Tòa án
Nhân dân tỉnh Cao Bằng). Theo nhiều nguồn tin, Nông Đức Mạnh là con của
HCM với bà Ngác. Năm 1955 khi về Hanội, ông sống chung với Nông Thị
Xuân có một con trai là Nguyễn Tất Trung, rồi âm mưu với Bộ Trưởng Công
An Trần Quốc Hoàn giết Nông thị Xuân vì bà Xuân đòi có đám cưới.
Blogger Huỳnh Tâm đã viềt về đời sống tình dục của ông như sau : «…Ông
là người say mê mỹ nữ. Mỗi lần si tình một mỹ nữ, ông sáng tạo một bút
hiệu và danh sách bút hiệu cứ thế tăng dần. Danh sách nầy là để giúp ông
tưởng nhớ lại mỗi hương vị ân ái động đào ( Bên trong xác ướp HCM.
Anle20’s blog). Thì ra, số tên và bút hiệu của ông lên đến con số 180
không phải chỉ liên quan đến hoạt động chính trị mà còn liên quan đến
đời sống tình dục của ông.
Chính vì đời sống tình dục và những cuộc tình của ông có nhiều «vấn
đề» khiến ông trở nên yếu hèn trước các đồng chí, nhất là với Lê Duẩn,
làm ngơ cho các đồng chí lộng hành.
Theo Bill Hayton, phóng viên BBC ở VN, tác giả quyển Viet Nam: Rising
Dragon thì: quyền lực thực sự nằm trong tay Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng
Cộng sản, một người theo chủ nghĩa Staline thật tàn bạo Lê Duẩn đã dùng
lực lượng an ninh để kiểm soát hoạt động của các nhà lãnh đạo khác và
thi hành chiến lược chiến tranh toàn diện chống lại Việt Nam Cộng hòa ở
miền Nam Việt Nam.Thắng lợi vào năm 1975 đã đưa ông Lê Duẩn nắm quyền
nhưng với những hậu quả khủng khiếp. Trả thù và quản lý kinh tế yếu kém
đã khiến đất nước bị cô lập và nghèo khó. Cái chết của ông vào năm 1986
đã mở đường cho một nước Việt Nam mở cửa. (BBC ngày 29/8/2013).
Chú Ba Tàu Hồ Tập Chương
Những tưởng «bác» được yên thân trong cái quan tài pha lê chờ ngày
tan rữa, nào ngờ năm 2008, Hồ Tuấn Hùng, Giáo sư Đại học Đài Loan, trong
quyển sách của ông tựa là Hồ Chí Minh sinh bình khảo đã công bố những
tin tức «động trời ».Theo ông Hùng, Nguyễn Ái Quốc đã chết năm 1932 ở
Liên Xô vì bịnh lao phổi và cái xác nằm trong lăng Ba Đình là của một
người Trung Quốc tên Hồ Tập Chương. Ông giải thích là sau khi Nguyễn Ái
Quốc chết, bà Vera Vasilieva người phụ trách bộ phận Việt Nam Quốc tế
Cộng Sản đã đặt kế hoạch 5 năm cho Hồ Tập Chương, một người Tàu đến từ
Đài Loan học tập cải tạo để biến thành Nguyễn Ái Quốc thay thế Quốc tiếp
tục công cuộc xây dựng đảng Cộng Sản Việt Nam và cầm quyền cho đến khi
chết. Trong 342 trang sách, Hồ Tuấn Hùng đã chứng minh bằng nhiều dữ
kiện để phân biệt hai giai đoạn của cuộc đời Hồ Chí Minh:
1- Hồ Chí Minh thời kỳ 1890-1932 là Nguyễn Ái Quốc người Việt Nam
2- Hồ Chí Minh thời kỳ 1933-1969 là Hồ Tập Chương người Đài Loan.
Nói cách khác, Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh gồm 2 người nhân
thân khác nhau: nửa đời trước là lãnh tụ cộng sản Việt Nam tên Nguyễn Ái
Quốc, nửa đời sau là nhân sĩ Quốc tế cộng sản Hồ Tập Chương đến từ Đài
Loan.
Ngoài tập tài liệu của Hồ tuấn Hùng, một bài viết khá dài ký tên
Huỳnh Tâm phổ biến trên Internet (Anle20’s blog) trình bày một cách chi
tiết những ngày cuối cùng của Hồ Chí Minh để hỗ trợ cho luận cứ HCM là
một người Trung Quốc..
Theo Huỳnh Tâm, khi HCM trở bịnh nặng, trong tuần lễ cuối tháng
8/1969, Thủ Tướng Chu Ân Lai đã lần lượt gởi đến Hà Nội 4 phái đoàn y tế
trong đó có nhiều danh y như Ngô Gia Bình (Wu Jiaping), Giám đốc Trung
Quốc Học Viện Y khoa, để cứu chửa HCM . Ngoài ra, còn có một phái đoàn
nhân viên tình báo để cướp xác HCM nếu cần hầu bảo vệ tông tích của HCM
và một phái đoàn chuyên viên ướp xác. Đến khi HCM chết ngày 2 /9/1969,
Trung Quốc gởi qua Hà Nội một phái đoàn hùng hậu chưa từng thấy để dự
tang lễ gồm Thủ Tướng Chu Ân Lai, Phó TT Lý Tiên Niệm và nhiều ủy viên
cao cấp trong Quân Ủy Trung Ương.
Bởi lẽ khi Hồ Chí Minh chết thì phi cơ Mỹ đang dội bom ác liệt Bắc
Việt, xác Hồ Chí Minh phải được di chuyển nhiều lần và chôn sâu trong
các hang động để tránh bom đạn, do đó khi lăng Ba Đình được xây xong năm
1975, cái xác nằm trong cái quan tài pha lê được đặt trong lăng không
phải là cái xác của HCM đã bị chôn đi chôn lại.
Huỳnh Tâm đã viết : « Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà lãnh đạo
đảng CSVN biết rõ cái xác ướp nầy là ai, tuy nhiên họ phải tạo ra một
biểu tượng nên họ phải trả giá cao. Họ sẵn sàng chi một ngân khoản lớn
để bảo vệ uy tín của đảng cho dù người trong quan tài pha lê là một tên
vô danh tình cờ được nằm vào đó để cho dân tộc VN tung hô muôn năm. Muốn
bảo quản tốt, họ phải trả một chi phí vô cùng đắt giá, để rồi sau đó họ
phải chống đỡ những khó khăn cùng lúc phải khéo lường gạt ».
Nhận định về tập tài liệu của Hồ Tuấn Hùng
Bài viết nầy không có mục đích trình bày những luận cứ của tác giả Hồ
Tuấn Hùng khẳng định Nguyễn Ái Quốc đã chết và Hồ Tập Chương đã đóng
vai Hồ Chí Minh từ năm 1933 đến 1969, cũng như không lập lại những phản
biện của môt vài tác giả (thí dụ như của ông Phạm Đình Lân rất thuyết
phục) về sự phi lý của xác quyết nầy. Bài viết muốn đặt vài giả thuyết
về sự xuất hiện của tập tài liệu và sự im lặng đáng ngạc nhiên của đảng
Cộng Sản Việt Nam từ lúc xuất hiện tập tài liệu cho đến nay.
- Thâm ý của tập tài liệu
Hồ Tuấn Hùng và bác của ông là Hồ Tập Chương là những công dân của
nước Đài Loan, hiểu theo nghĩa chính trị, nhưng là người Hán tộc (người
Hakkan, tiếng Việt thường gọi là người Hẹ) hiểu theo nghĩa chủng tộc.
Người Trung Quốc ở bất cứ nơi đâu, nói bất cứ ngôn ngữ nào, họ vẫn là
người Trung Quốc, trung thành với Trung Quốc. Vào thời điểm người Việt
trong nước và ngoài nước chống đối kịch liệt Trung Quốc xâm chiếm lãnh
thổ lãnh hải và khai thác tài nguyên VN, quyển sách được tung ra là để
nói lên một cách ngạo mạn cho dân VN biết rằng tứ 1933 đến 1969, người
thành lâp đảng CSVN, người lãnh tụ cai trị VN là một người Trung Quốc.
- Sự im lặng của đảng CSVN
Từ khi quyển sách được tung ra bằng Hán Văn năm 2008 và bản dịch Việt
ngữ hồi đầu năm 2013, đảng CS hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Về việc HCM
giả hay thật, chắc chắn có một số đảng viên cùng thời với HCM nhận biết
được qua nhân dạng, nhất là chỉ cần căn cứ vào một yếu tố đơn giản là
giọng nói Nghệ An của HCM, một chú ba Tàu không thế nào giả giọng được.
Số đồng chí nầy đa số đã chết và nếu có ai đó may mắn còn sống sót và
nhận biết được sự giả mạo nầy, có can đảm ghi lại sự giả mạo nầy thì
lịch sử sẽ phải được viết lại khi những tài liệu nầy được tiết lộ và
kiểm chứng. Đám hậu duệ của HCM đang ngự trị trong bộ Chính trị hiện nay
đa số không biết HCM và nếu có biết những chuyện bí ẩn lạ kỳ, thì vì
quyền lợi và rung sợ trước đàn anh Trung Quốc chắc chắn không ai dám hé
môi. Việc im lặng của đảng Cộng Sản trong trạng huống như vậy có thể
hiểu được. Nhưng sự im lặng trở nên có vấn đề khi bản dịch tiếng Việt
của Thái Văn đã được phổ biến rộng rãi trên Internet từ nhiều tháng qua
khiến dư luận có nhiều cách giải thích khác nhau.
Trước tiên là bức thơ ngày 25 tháng 8 năm 2013 của ông Phạm Quế
Dương, phổ biến trên blog danlambao ở trong nước, trang mạng có nhiền
blogger bị CS xem là phản động. Sau khi tóm lược ý chính của tập tài
liệu của Hồ Tuấn Hùng, ông Dương viết :
…Thời đại Internet hiện đại, nên sách được loan tải trên mạng rất
rộng rãi. Nhiều người đến trao đổi với tôi, hầu hết là những người từng
trực tiếp tham gia kháng chiến, là bộ đội, là cán bộ tuyên huấn… Một số
người phản đối, cho cuốn sách là bịa đặt, đổi trắng, thay đen. Một số
người thì bảo chuyện này cũng đã được nghe từ lâu và tin lời ông tác
giả. Họ dẫn chứng: năm 1957, cụ Hồ Chí Minh về thăm quê ở xã Kim Liên,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mà không ra thắp hương mộ thân mẫu là cụ
Hoàng Thị Loan. Năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà chị là
Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, cụ Hồ tránh mặt, không dám gặp, chỉ cử 2
cán bộ cao cấp tiếp.
Bản thân tôi rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự hào đã 45 năm là
Lính Bác Hồ, Bộ đội Bác Hồ. Khi làm Tổng biên tập báo Phòng Không-Không
Quân, ba lần được tiếp xúc với Chủ Tịch khi Chủ Tịch thăm Quân chủng và
trận địa tên lửa, viết bài về Chủ Tịch. Nhiều lần về thăm quê Chủ Tịch
và thắp hương lễ mộ cụ Hoàng Thị Loan, vào Sài Gòn đến Cảng Nhà Rồng
thăm nơi «Bác Hồ đi tìm đường cứu nước », nhiều lần vào lăng viếng Bác.
Kính mong nhà cầm quyền, Đảng và Nhà nước Việt Nam cử giới khoa học
lịch sử làm rõ sự thật vụ việc này. Nếu tác giả bịa đặt thì đưa ra tòa
án quốc tế xét xử, làm rõ sự thật.
Ông Phạm Quế Dương năm nay 90 tuổi, đã tham gia chiến dịch Điện Biên
Phủ, được phong chức đại tá. Ông còn là nhà sử học, nguyên Tổng biện tập
tạp chí Lịch sử Quân đội. Ông bị cầm tù, bị khai trừ ra khỏi đảng vì
chống đường lối của đảng và đã được cơ quan Human Rights Watch trao giải
thưởng Hellman-Hammett dành cho các nhà tranh đấu nhân quyền. Sự lên
tiếng của ông Phạm Quế Dương khiến dư luận đặt nhiều câu hỏi.
Như bức thơ ông viết, ông đã có tiếp xúc với ông Hồ 3 lần, như vậy
ông có thể nghe ông Hồ nói giọng Nghệ An, nhận biết nhân dạng vì ông đã
sống trong chế độ «bác» đến 45 năm, cớ sao ông còn nói trong thơ một
cách ỡm ờ như có nghi vấn . Phải chăng Hồ Chí Minh thực sự là chú ba Tàu
như tài liệu của Hồ Tấn Hùng, nhưng vì sợ nên ông không dám nói, hay Hồ
Chí Minh thực sự là bác Hồ dân Nghệ An, mà vì ông muốn «quấy rầy» nhà
nước nên chẳng những ông không xác nhận mà còn nói bóng gió tạo hoài
nghi trong dân chúng bởi lẽ hôm nay ông là kẻ thù của chế độ. Ông Phạm
Quế Dương là một trong những người đương thời với Hồ Chí Minh còn sống
và đủ tư cách để xác nhận hay phủ nhận luận cứ của Hồ Tấn Hùng. Chờ xem
màn kịch nầy.
Về phía người dân, người giàu thì bận lo chuyện bốc hốt, người nghèo
thì bận lo bửa đói bửa no, họ không cần biết « Hồ Tàu Khựa» hay «Hồ xứ
Nghệ » bởi Hồ nào thì cũng là hồ ly tinh. Đối với người dân, Trung Quốc
là kẻ thù và chính phủ cũng giống như kẽ thù, do đó người dân đặt câu
hỏi phải chăng chính phủ đã tung ra bản dịch tiếng Việt mà không cần
phải lên tiếng là để ngầm thông báo cho dân chúng biết sự ngạo mạn hung
hăn của Trung Quốc và phải chăng, trước phản ứng chống đối của người dân
với chánh phủ càng lúc càng nhiều, chính phủ muốn cho người dân chửi
rủa «bác» Hồ, không cần biết là Hồ Tàu hay Hồ Việt để cho đảng và chính
phủ yên tâm tiếp tục công trình tham nhũng. Đếm bạc sướng hơn chửi bác,
đó là sách lược mới của đảng.
Kết luận
Kể chuyện cậu Ba Nguyễn Tất Thành và chú Ba Hồ Tập Chương, chúng tôi
muốn nêu lên một thảm kịch của nước Việt Nam đã không may có một Hồ Chí
Minh ít học, thiếu tài, kém đức đã làm cho đất nước VN trở nên điêu linh
lại còn dắt đến VN một chú Ba Tàu thô bạo. Cậu Ba Nguyễn Tất Thành đã
chết nhưng Việt Nam hôm nay lại nổi lên thêm nhiều cậu Ba khác trong bộ
Chính trị mà cậu Ba nguy hiểm nhất, tham nhũng nhất đã và đang hợp tác
với chú Ba Tàu để đưa đất nước đến chỗ diệt vong là cậu Ba Dũng.
20/09/2013
© Lâm Văn Bé
© Đàn Chim Việt