Diên Vỹ chuyển ngữ
25.09.2013
Lịch sử của một đất nước vật lộn với bệnh nghiện rượu, và tại sao chính quyền lại chẳng làm gì để giải quyết.
Một nhóm người đang thưởng thức rượu Vodka gần một ngôi làng ở vùng
núi xa xôi tại Tsovkra-1 thuộc vùng Caucasus, Dagestan (Ảnh Thomas
Peter/Reuters)
Hình ảnh của một người Nga nghiện rượu: mũi đỏ, râu không cạo, tay
nắm chặt chai vodka. Bên cạnh anh ta là nửa lọ dưa chuột muối và một ổ
bánh mỳ đen để giúp đẩy thứ chất lỏng quái quỷ đi xuống. Niềm hạnh phúc
đẫm đầy chất cồn khiến anh ta ca hát một cách vui sướng. Thế giới của
anh có thể không hoàn hảo nhưng cơn say làm anh thấy nó như thế.
Căn cứ theo Tổ chức Sức khoẻ Thế giới (WHO), hiện nay tại Liên bang
Nga thì trong năm người chết thì có một người chết vì liên quan đến
rượu, so với tỉ lệ 6,2% nam giới trên toàn thế giới. Trong bài viết của
mình vào năm 2000 “Bước đầu: AA và Bệnh nghiện rượu ở Nga” (AA:
Alcoholics Anonymous: Hội Những người Nghiện rượu Vô danh, một tổ chức
giúp cai rượu - ND), Patricia Critchlow ước đoán là có khoảng 20 triệu
người Nga mắc bệnh nghiện rượu trong một quốc gia chỉ có 144 triệu dân.
Nhân vật nghiện rượu Nga là một hình ảnh cố hữu kéo dài từ thời kỳ
Nga hoàng, trong thời kỳ Cách mạng Nga, trong thời kỳ Liên bang Sô viết,
trong thời kỳ chuyển đổi từ xã hội chủ nghĩa chuyên chế sang dân chủ tư
bản, và anh ta vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội ngày nay. Anh ta ngồi
trên chiếc ghế công viên gãy nát hoặc trên các tam cấp của nhà ga với
điếu thuốc lá thỏng trên môi, tính toán đến việc kiếm ở đâu ra chai rượu
kế tiếp và liệu anh ta có thể xoay trở nổi hay không.
Chính quyền Nga đã liên tục tìm cách đối phó với tệ nạn này, nhưng
chẳng có kết quả mấy: đã có bốn đợt cải cách trước năm 1917, và những
biện pháp tổng thể được áp dụng trong thời kỳ Sô Viết trong những năm
1958, 1972, và 1985. “Sau mỗi chiến dịch quyết liệt tăng cường chống
rượu, xã hội Nga lại thấy mình đối diện với nạn say sưa và nghiện rượu
càng trầm trọng hơn,” G.G. Zaigraev, giáo sư Khoa học Xã hội và
người đứng đầu Hội Khoa học thuộc Viện Xã hội Học tại Học viện Khoa học
Nga giải thích. Chứng nghiện tiền thu nhập từ rượu của Kremlin đã xóa bỏ
đi nhiều nỗ lực nhằm giúp người Nga bớt uống rượu: Ivan Bạo chúa từng
khuyến khích thần dân của mình uống cạn đến đồng kopeck cuối cùng tại
những quán rượu của chính quyền để nêm chặt ví của vị hoàng đế này.
Trước khi Mikhail Gorbachev nắm quyền vào những năm 1980, các nhà lãnh
đạo Sô Viết xem việc bán rượu như là một nguồn thu nhập của chính phủ và
không nhìn nhận việc uống rượu nhiều là một vấn nạn xã hội trầm trọng.
Trong năm 2010, bộ trưởng tài chính Nga là Aleksei L. Kudrin đã giải
thích rằng cách tốt nhất mà người Nga có thể giúp “nền kinh tế đang què
quặt của nước nhà là hút thuốc và uống rượu nhiều thêm, qua đó mà trả
thêm thuế.”
Qua hình thức tạo điều kiện cho việc bán và phân phối rượu, điện
Kremlin từ lâu đã có ảnh hưởng đáng kể trong những thập niên gần đây.
Nhưng lịch sử rượu chè của Nga đã có từ nhiều thế kỷ trước.
Vào năm 988, Hoàng tử Vladimir quyết định chuyển quốc gia của mình
sang đạo Thiên Chúa giáo Chính thống (Orthodox Christianity - ND), một
phần vì đạo này cho phép được uống rượu. Theo truyền thuyết, các tu sĩ ở
Tu viện Chudov trong điện Kremlin là những người đầu tiên đã nếm mùi vị
của vodka vào cuối thế kỷ thứ 15, nhưng theo nhà văn Nga Victor
Erofeyev thì “Hầu như mọi thứ trong câu chuyện này đều mang tính hình
tượng một cách thái quá: sự liên quan của những tu sĩ, tên của tu viện,
vốn không còn nữa (chudov có nghĩa là “kỳ diệu”), và bối cảnh của nó tại thủ đô nước Nga.”
Vào năm 1223, quân đội Nga bị thất trận thảm hại trước quân xâm lược
Mông Cổ và Tartar một phần là vì họ đã say xỉn khi lâm trận.
Ivan Bạo chúa đã thiết lập những nhà kabak (nơi nấu và bán
rượu) vào những năm 1540, và đến những năm 1640 chúng đã chiếm vị thế
độc quyền. Vào năm 1648, các cuộc nổi loại chống các quán rượu nổ ra
trên khắp đất nước, vào lúc ấy một phần ba nam giới đã bị mang nợ từ các
quán rượu. Trong những năm 1700, để lập lại trật tự, Peter Đại đế đã
giành độc quyền trong ngành chế biến vodka và đã trục lợi từ thói nghiện
rượu của thần dân mình. Heidi Brown, người đã sống ở Nga trong 10 năm
để viết bài cho tạp chí Forbes, giải thích rằng “Peter Đại đế
đã ra chiếu chỉ rằng những người vợ của các nông dân sẽ bị ăn roi nếu họ
tìm cách kéo những ông chồng đang cạn chén ra khỏi quán rượu trước khi
các ông ấy muốn về.”
Peter Đại đế cũng đã tìm được một nguồn cung cấp nhân công miễn phí
dồi dào bằng cách cho phép những ai mắc nợ vì nhậu nhẹt không phải ngồi
tù của chủ nợ bằng cách phục vụ trong quân đội 25 năm.
Việc uống rượu lan tràn và quá mức không chỉ được chấp thuận mà còn
được khuyến khích như là một cách để thu nhập ngân sách. Đến những năm
1850, gần phân nửa lượng tiền thuế của chính quyền Sa Hoàng có được là
từ việc bán vodka. Sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917, Lenin đã cấm vodka.
Nhưng sau khi ông chết, Stalin đã dùng việc bán vodka để giúp chi trả
cho quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở Liên Sô. Cho đến những
năm 1970, lượng thuế từ rượu một lần nữa lại chiếm đến một phần ba thu
nhập ngân sách của chính phủ. Một nghiên cứu cho thấy mức tiêu thụ rượu
đã tăng hơn gấp đôi giữa năm 1955 và 1979, lên đến 15,2 lít mỗi đầu
người.
***
Đã có lập luận cho rằng việc tiêu thụ rượu mạnh mẽ cũng được dùng như
những phương tiện nhằm giảm thiểu sự đối lập chính trị và như một hình
thức đàn áp chính trị. Sử gia và nhà chống đối Nga Zhores Medvedev vào
năm 1996 đã cho rằng “Cái thứ ‘thuốc phiện của quần chúng’ [vodka]
này có lẽ đã giải thích được tại sao tài sản chính phủ Nga đã có thể
phân bố và các doanh nghiệp nhà nước được chuyển sang sở hữu tư nhân một
cách mau chóng mà không dẫn đến bất kỳ một bất an xã hội nào cả.” Vodka luôn là một thứ máy làm ra tiền ở Nga, có lẽ nó cũng là một thứ máy sản xuất ra chính quyền.
Cho đến hôm nay, chỉ có hai chiến dịch chống rượu toàn diện ở Nga, cả
hai đều xảy ra trong thời kỳ Liên bang Sô viết: một lần dưới thời
Vladimir Lenin và lần kia dưới thời Mikhail Gorbachev. Tất cả các nhà
lãnh đạo khác hoặc là tảng lờ sự hiện hữu của nạn nghiện rượu hoặc thừa
nhận vấn đề tiêu thụ rượu quá độ nhưng chẳng làm việc gì đáng kể để đối
phó. Critchlow đã viết rằng “Dưới thời các chính phủ Stalin,
Khrushchev and Brezhnev, những hình phạt nặng nề được đưa ra cho những
ai phạm tội trong lúc say rượu, nhưng việc uống rượu quá độ lại không
được xem như một đe doạ đối với xã hội, có lẽ vì bản thân các nhà lãnh
đạo cũng là những người thích nhậu, đã xem việc uống rượu như một chiếc
van xả đối cho thái độ bất mãn.”
Tháng Năm năm 1985, Gorbachev đã công bố một đạo luật và một chiến
dịch tầm cỡ như là một phần của cuộc chiến tranh mới từ Kremlin chống
lại nạn nghiện rượu - lúc ấy đang là vấn nạn xã hội lớn nhất và là căn
bệnh đứng thứ ba sau các chứng tim mạch và ung thư ở Liên bang Sô viết.
Nó đã được nhiều người xem là một kế hoạch kiên quyết và có tác dụng
nhất cho đến nay: tỉ lệ sinh con tăng, tuổi thọ tăng, vợ thấy mặt chồng
thường xuyên hơn, và năng lượng sản xuất khá hơn. Tuy nhiên, sau một đợt
tăng giá rượu và sản lượng rượu quốc gia bị giảm, một số người đã bắt
đầu tích trữ đường để nấu rượu lậu, và những người khác tự đầu độc mình
bằng những hoá chất gây say nguy hiểm như dung dịch làm mát máy xe. Sự
bực bội của người dân đối với chiến dịch chống rượu của Gorbachev có thể
được tóm gọn trong câu chuyện cười thời Sô viết: “Người ta đang xếp
hàng dài để mua vodka, và có một gã khốn khổ không thể chờ thêm được
nữa: ‘Tớ đi đến Kremlin để giết Gorbachev,” gã bảo. Một giờ sau gã quay
lại. Dòng người xếp hàng vẫn còn đấy, và mọi người hỏi gã, ‘Cậu đã giết
ông ấy chưa?’ ‘Giết ông ta?!’ gã trả lời. ‘Dòng người xếp hàng để làm
việc ấy còn dài hơn ở đây!”
Bất chấp những nỗ lực của Gorbachev, đến cuối thời đại Sô viết, nạn
nghiện rượu vẫn bám chặt nước Nga. Sự thành công của chiến dịch cuối
cùng lại đưa đến thất bại của nó: chi tiêu vào rượu tại những cửa hàng
nhà nước giảm đến hàng tỉ rúp từ năm 1985 đến 1987. Chính phủ đã ước
lượng rằng suy giảm thu nhập này sẽ được bù đắp cao hơn bởi năng suất
chung được dự đoán là sẽ tăng đến 10 phần trăm, nhưng cuối cùng thì dự
đoán này đã không đạt được.
Sau khi Liên Sô sụp đổ, tình trạng nhà nước độc quyền về rượu đã bị
huỷ bỏ vào năm 1992, điều này dẫn đến việc tỉ lệ cung cấp rượu gia tăng ở
cấp số mũ. Vào năm 1993, mức độ tiêu thụ rượu đã đạt mức 14,5 lít rượu
nguyên chất cho mỗi đầu người, biến Nga thành quốc gia tiêu thụ rượu
nhiều nhất thế giới. Đến nay, thuế đánh vào rượu vẫn còn thấp, một chai
vodka rẻ nhất có giá chỉ 30 rúp (1USD). Như Tom Parfitt đã giải thích
trong bài viết trên báo Lancet vào năm 2006, “Câu trả lời đơn giản về
việc tại sao có quá nhiều người Nga trở thành con mồi của rượu… vì nó
rẻ. Có khoảng 30-60% rượu được sản xuất lậu, vì thế chúng không bị đánh
thuế. Một lượng lớn rượu được tuồn ra trong những ‘ca đêm’ tại các xí
nghiệp có giấy phép, nơi các nhân viên kiểm tra nhà nước được hối lộ để
cắt bỏ những nhãn hiệu chứng nhận trên các dây chuyền sản xuất vào cuối
ngày làm việc.”
Vladimir Putin đã lên án việc nhậu nhẹt quá độ và Dmitri Medvedev
từng gọi chứng nghiện rượu ở Nga là một “thiên tai”, nhưng bên cạnh
những khẩu hiệu, chẳng có biện pháp gì được đưa ra để thắt chặt việc
quản lý ngành sản suất rượu, và cũng chẳng có một chương trình rõ rệt
nào được tiến hành nhằm chống lại nạn nghiện rượu. Gennady Onishchenko,
Giám đốc Cơ quan Kiểm tra Y tế Liên bang Nga đã kêu gọi chính phủ nên
chi tiêu nhiều hơn vào việc chữa bệnh nghiện rượu để đối phó với tỉ lệ
tử vong liên quan đến rượu vốn đã tăng gấp ba lần kể từ năm 1990, ông
cho rằng các biện pháp cấm đoán và tăng thuế thì phản tác dụng.
Hiện nay, cách thức chủ yếu để cai rượu ở Nga là phương pháp đề xuất
của khoa Giải nghiện (Narcology - ND) (một chuyên khoa thuộc ngành tâm
thần của Nga chuyên trị các chứng nghiện). Phương pháp Giải nghiện, còn
được gọi là “giải mã”, là một qui trình nhằm kích thích tính phản ứng
đối với rượu trong tiềm thức bệnh nhân.
”Trong khi nhiều khía cạnh trong lĩnh vực chữa trị chứng nghiện
ngập ở Nga đã được chuyển hoá mạnh mẽ trong những năm 1990, cấu trúc
chung của hệ thống chữa trị do nhà nước đài thọ vẫn không có thay đổi
quan trọng từ những năm 1970, khi hệ thống bài trừ nghiện ngập Sô viết
được thành lập,” Eugene Raikhel thuộc Đại học Chicago viết. Những
phương pháp ít phổ biến hơn được dùng để chữa trị bệnh nghiện rượu và ma
tuý bao gồm việc “giải phẫu” não bộ bằng kim và “đun sôi” bệnh nhân
bằng cách tăng thân nhiệt của họ nhằm giảm thiểu những triệu chứng vật
vã của cơn nghiện. Những phương pháp cai rượu thông dụng như hội Nghiện
rượu Ẩn danh cũng có mặt ở Nga, nhưng chúng không được Kremlin chính
thức công nhận và không được nhà nước tài trợ, khiến chúng trở nên khan
hiếm và thiếu nguồn vốn.
Nhà thờ Chính thống Nga cũng nghi ngờ các chương trình tự chữa này. Critchlow giải thích, ”Bất
chấp thành tích chữa trị nhiều người nghiện rượu và ma tuý, các chương
trình tự cai như hội Nghiện rượu Ẩn danh và Nghiện Ma tuý Ẩn danh… đã
gặp phải chống đối ở Nga, đặc biệt là từ giới chuyên môn y tế, quan chức
chính phủ và các giáo sĩ Nhà thờ Chính thống Nga.” Bà viết thêm ”Các
thành viên của giới giáo sĩ Nhà thờ Chính thống đã bày tỏ sự hoài nghi
đối với phong trào tự chữa trị, thường vì họ xem nó như là một loại tà
giáo đang tràn vào nước Nga.”
Năm 2010, Nhà thờ Chính thống xem hội Nghiện rượu Ẩn danh như một ”công cụ hữu hiệu trong việc phục hồi các con nghiện rượu và ma tuý,” trong khi tuyên bố rằng họ cũng thành lập chương trình chữa chạy chứng nghiện rượu của riêng mình.
Trong khi ấy, nhiều người Nga vẫn thích sử dụng các phương pháp chữa trị truyền thống hơn. ”Tôi
tham dự hội Nghiện rượu Ẩn danh và đã không tin vào tai mình. Họ chẳng
tôn thờ Chúa và còn nói rằng họ tự mình chiến thắng bệnh nghiện rượu.
Điều này khiến họ đầy ắp tự hào,” một tín đồ Chính thống đã viết trên blog của mình. ”Tôi quay lại Nhà thờ. Ở đấy, họ chiến thắng nó bằng lời cầu nguyện và phép kiêng cữ.”