Nguyễn Trung
VII – Nhìn lại chặng đường 38 năm qua của Việt Nam
Các vấn đề trình bầy trong các phần I – VI cho phép kết luận thế giới
đang chuyển mình đi vào một thời kỳ phát triển mới có nhiều sóng gió
hơn, trong đó CA – TBD chiếm vị trí nổi bật.
Chặng đường đầu tiên của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong
thời bình đến nay là gần 4 thập kỷ, trong đó thời kỳ đổi mới đã làm xong
nhiệm vụ chuyển đổi thể chế kinh tế; ngày nay đất nước đứng trước đòi
hỏi phải chuyển sang một giai đoạn phát triển mới.
(1)Nhìn nhận nước ta đang đứng ở đâu, mạnh yếu ra sao trước khi bước
vào thời kỳ phát triển mới này, (2) nhìn nhận mọi thách thức và cơ hội
mới của thế giới đang đặt ra cho nước ta, (3) nhìn nhận những đòi hỏi
phát triển của chính nước ta trong bối cảnh mới của thế giới để từ đó có
quyết sách phù hợp, đấy là những việc bắt buộc phải làm.
Dưới đây là những điều trăn trở.
VII – 1. Điểm nổi bật sau khi kết thúc thời kỳ đổi mới: Bên
cạnh những thành công, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc vấp phải
nhiều thất bại nghiêm trọng
VII – 1.1 So sánh nước ta với chung quanh
Thành công cơ bản của 28 năm đổi mới là cứu đất nước thoát khỏi đổ
vỡ, xóa bỏ cơ chế kinh tế bao cấp để đi vào cơ chế kinh tế thị trường,
mở đường cho đất nước đi vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH
– HĐH). Đã có nhiều đánh giá, ca ngợi những thành công của thời kỳ đổi
mới, thiết nghĩ như thế là đủ. Bây giờ nên tập trung đánh giá kỹ những
việc chưa làm được, những thiếu sót, tồn tại.
Tai chúng ta đã nghiện kiểu so ta hôm nay với ta hôm qua. Không hiếm khi cách so sánh này bị lạm dụng, với ý đồ xấu.
Hiển nhiên, những gì đất nước hôm nay đạt được so với hôm qua, thật
là rất lớn. Đấy là sự thật. Ví dụ, trước khi tiến hành đổi mới (1986)
GDP p.c danh nghĩa của nước ta khoảng xấp xỉ 200 USD; hiện nay GDP p.c.
danh nghĩa của nước ta khoảng 1500 USD, nghĩa là cao gấp 7 - 8 lần trong
vòng 3 thập kỷ (nói chính xác là 28 năm)... So sánh như vậy là cần
thiết, nhưng hoàn toàn chưa đủ. Nếu chỉ đơn thuần xem xét theo cách như
vậy, tai mắt chúng ta bị khỏa lấp nhiều thứ lẽ ra cần phải biết tường
tận hơn.
Ví dụ, nếu ngó ra thế giới chung quanh để so sánh ta với người, chúng ta sẽ thấy gì?
Thử nhìn sang Trung Quốc: Trong gần 4 thập kỷ
(chính xác là 35 năm kể từ khi tiến hành cải cách năm 1978) GDP danh
nghĩa của Trung Quốc tăng 35 lần, GDP p.c danh nghĩa tăng khoảng 20
lần.
- Bước vào cải cách kinh tế năm 1978 GDP p.c. của Trung Quốc
cao hơn của ta khoảng +100 USD, nhưng hiện nay khoảng cách này là +4500
USD.
- Trước cải cách năm 1978, kinh tế Trung Quốc chỉ lớn hơn kinh
tế của nước ta khoảng 10 - 15 lần!.. Hiện nay GDP danh nghĩa của Trung
Quốc lớn của nước ta gấp 58 lần.
- Cả 2 nước Việt Nam và Trung Quốc – nói theo ngôn ngữ chính
thống – đều là xã hội chủ nghĩa. Nhưng hiển nhiên theo dòng thời gian,
nước ta càng chạy đua với Trung Quốc, càng tụt hậu một cách nguy hiểm…
So với nhiều nước có mối liên hệ quan trọng với nước ta, chắc cũng phải rút ra kết luận nhức nhối.
Ví dụ, so với Thái Lan: Năm 1986 (bắt đầu đổi mới)
GDP p.c. của Việt Nam ước khoảng 200 USD, của Thái Lan lúc ấy là 807
USD, chênh nhau -607 USD; hiện nay của ta là 1500 USD, của Thái Lan là
5500 USD chênh nhau là -4000 USD (số tròn),. Năm 1986 các nhà kinh tế
của ta ước tính phải mất 20 năm mới đuổi kịp được Thái Lan, bây giờ
khoảng cách này không hề thu hẹp lại. Nói riêng về hệ thống giao thông
vận tải, nếu nước ta giữ nguyên tốc độ phát triển như hiện nay, sau 20
năm nữa khó có thể bằng Thái Lan bây giờ.
So với Hàn Quốc: Hiện nay GDP danh nghĩa của Hàn
Quốc cao hơn của nước ta khoảng 10 lần, mặc dù diện tích Hàn Quốc chỉ
bằng khoảng 1/3 Việt Nam, dân số chỉ hơn một nửa Việt Nam. GDP p.c.
danh nghĩa hiện nay (2012) của Hàn Quốc cao hơn nước ta khoảng 15 lần
(23.133 USD / 1.528 USD). Hiện nay Việt Nam đang mắc vào cái bẫy nước
thu nhập trung bình thấp, điều này có nghĩa khả năng cạnh tranh và con
đường trở thành nước công nghiệp phía trước càng thêm nhiều chông gai.
Khoảng cách phát triển giữa ta và Hàn Quốc tiếp tục doãng ra.
Một khía cạnh so sánh khác: Trong ba thập kỷ đầu
tiên của đổi mới (nói chuẩn xác là 28 năm), toàn bộ nguồn lực Việt Nam
nhận được từ bên ngoài dưới mọi dạng (FDI đã thực hiện, ODA, viện trợ
không hoàn lại, kiều hối các loại…) ước khoảng 200 tỷ USD (sự thật có
thể hơn), nghĩa là khoảng gấp đôi toàn bộ nguồn lực bên ngoài Hàn Quốc
nhận được trong ba thập kỷ đầu tiên trên con đường kiến thiết của nó sau
cuộc chiến tranh 1950 - 1953, và đầu thập kỷ 1980 Hàn Quốc đã trở thành
NIC (nước mới công nghiệp hóa). Song Việt Nam hôm nay vẫn còn đứng rất
xa cột mốc được công nhận là NIC. Mặc dù so với Hàn Quốc, nước ta có
quy mô kinh tế lớn hơn, diện tích đất nước rộng hơn, tài nguyên thiên
nhiên phong phú hơn – nghĩa là thuận lợi hơn Hàn Quốc rất nhiều.
Một con số khác nữa: Kế hoạch Marshall của Mỹ nhằm
viện trợ tái thiết cho các nước Tây Âu sau chiến tranh thế giới II (với
mục đích ngăn ngừa sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản) được xúc tiến
trong các năm 1948 – 1951, với tổng số tiền là 13 tỷ USD (tương đương 5%
GDP nước Mỹ thời đó)[51] - quy theo thời giá hiện nay ước khoảng gần
100 tỷ USD (số tròn). Kế hoạch Marshall đã thực hiện được mục tiêu của
nó, kinh tế các nước Tây Âu thực sự đã được vực dậy nhanh chóng, từ thập
kỷ 1960 đã bắt đầu bỏ xa các nước XHCN Liên Xô Đông Âu về năng suất lao
động. Không thể không băn khoăn, nước ta đến nay nhận được khối nguồn
lực từ bên ngoài khoảng gấp đôi kế hoạch Marshall dành cho toàn bộ các
nước Tây Âu, nhưng nước ta hiện nay vẫn chưa tạo được bước ngoặt mở ra
giai đoạn phát triển mới của đất nước.
VII – 1.2. Không thể hoàn thành công nghiệp hóa Việt Nam vào năm 2020
Trong các góp ý với các Đại hội ĐCSVN kể từ Đại hội IX (2001) cho đến
nay (3 kỳ Đại hội liên tiếp), nhiều ý kiến đã đánh giá đường lối xây
dựng đất nước hiện nay không thể đưa Việt Nam trở thành nước công
nghiệp[52] vào năm 2020.
Kể từ khi thực hiện đổi mới năm 1986, nếu tính đến năm 2020 như các
nghị quyết của ĐCSVN ấn định, thời kỳ công nghiệp hóa ở nước ta sẽ là 34
năm, thời gian 10 năm trước đổi mới bỏ không tính. Hôm nay có thể nói
chắc chắn: Không thể hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa nước ta trong
vòng 7 năm nữa. Trong khi đó Hàn Quốc chỉ cần 25 – 30 năm kể từ khi
chiến tranh Tiều Tiên chấm dứt (năm 1953) để trở thành NIC đầu thập kỷ
1980.
Để trở thành nước công nghiệp dù là lọai gì (đấy là NIC, hay “cơ bản
là nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”như ghi trong các nghị
quyết của ĐCSVN), từ nay đến năm 2020 – nghĩa là còn 7 năm nữa – Việt
Nam không có cách nào có thể đưa tỷ trọng lao động nông nghiệp hiện nay
là 57% xuống còn dưới 20% - một trong những tiêu chí tối thiểu và bắt
buộc. Hàn Quốc khi được coi là trở thành NIC, tỷ trọng lao động nông
nghiệp chỉ còn 16 - 17%. Cơ cấu lao động của Hàn Quốc hiện nay (2012)
như sau: nông nghiệp 6,4%, công nghiệp 24,2%, dịch vụ và các ngành nghề
khác 69,4%.
Một ước tính thô thiển: Ví dụ, muốn giảm tỷ trọng lao động nông
nghiệp cả nước hiện nay xuống = >20%, ít nhất phải giải quyết được
vấn đề mỗi lao động nông nghiệp sẽ phải có một diện tích canh tác bình
quân cả nước gấp 3 - 4 lần diện tích canh tác bình quân hiện nay; ví dụ:
từ hiện nay là 1 ha / 3 lao động chuyển sang 1 ha / 1 lao động. Giả thử
có duy ý chí đến thế nào đi nữa, làm sao có thể hoàn tất việc này với
quỹ thời gian là 7 năm còn lại!?
Chưa nói đến một thực tế khác còn gay gắt hơn nhiều: Với trình độ
thâm canh và trình độ cơ giới hóa tự phát còn rất thấp của tư nhân hiện
nay đã đạt được trong nông nghiệp nước ta, mỗi lao động nông nghiệp hiện
nay sẽ cần phải có diện tích canh tác bình quân ước khoảng gấp 10 lần
mức diện tích canh tác bình quân hiện có, để có đủ việc làm quanh năm
với tính cách là nông dân, ước tính tối thiểu là 3 ha / 1 lao động nông
nghiệp.[53]
Đặt nhiệm vụ công nghiệp hóa sang một bên tính sau, bản thân vấn đề 3
ha / 1 lao động nông nghiệp đang trở thành đòi hỏi ngày càng bức xúc
của nông nghiệp nước ta. Không được giải quyết, sẽ đồng nghĩa với kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, phát sinh thêm nhiều mâu thuẫn
xã hội mới, đồng thời cũng có nghĩa sẽ không có công nghiệp hóa!
Xin tạm đặt cho vấn đề tích tụ ruộng đất để đi lên nông nghiệp hiện
đại trong một nước công nghiệp hóa như ở nước ta cái tên vừa cụ thể, vừa
dễ nhớ là: vấn đề 3 ha / 1 lao động nông nghiệp.
Giả định rằng chuyện 3 ha / 1 lao động nông nghiệp ngay từ đầu đã
được thiết kế thành một mục tiêu trong đường lối phát triển nông nghiệp
và nông thôn, thiết nghĩ 28 năm vừa qua kể từ khi tiến hành đổi mới,
hoàn toàn là khoảng thời gian đủ, để thực hiện xong các bước đi thích
hợp, tự nhiên theo cơ chế thị trường (có thể là tiệm tiến), tuần tự nối
tiếp nhau từ thấp lên cao trong quá trình công nghiệp hóa kinh tế cả
nước, để cuối cùng là hoàn tất mục tiêu này trong phát triển hài hòa của
cả nền kinh tế, không gây nên những xáo động nguy hiểm.
Nhưng đường lối phát triển nông nghiệp và nông thôn của ĐCSVN cho đến
hôm nay không hề có ý niệm về vấn đề 3 ha / 1 lao động nông nghiệp như
một bước khởi đầu chiến lược mang tính tất yếu của nhiệm vụ hiện đại hóa
nông nghiệp với tính cách là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ quá trình
công nghiệp hóa đất nước. Quan điểm của ĐCSVN trong vấn đề thiết yếu này
lại là bám riết vấn đề hạn điền và rất khắt khe với kinh tế trang trại,
tất cả chỉ để giữ vững định hướng XHCN – được hiểu ngầm là không để cho
hình thành giai cấp bóc lột mới trong nông nghiệp và nông thôn..
Toàn bộ đường lối của ĐCSVN về nông nghiệp và phát triển nông thôn
chỉ nhằm vào giải quyết những đòi hỏi phát triển trước mắt (an ninh
lương thực, xuất khẩu, an ninh xã hội...)… Đi đến đâu lãnh đạo cũng yêu
cầu nông dân vắt óc nghĩ: Trồng cây gì? Nuôi con gì? Lẽ ra những câu hỏi
bức xúc này nên để nông dân dành cho lãnh đạo.
Lối tư duy định hướng XHCN như vậy đã rũ bỏ trách nhiệm của
hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước trong việc tìm kiếm mọi khả năng
thực hiện bước khởi đầu tích tụ ruộng đất có ý nghĩa chiến lược này một
cách văn minh và hiệu quả nhất.
Ai cũng biết: Mô hình hợp tác xã cũ sau cải cách ruộng đất để đi lên
sản xuất lớn đã thất bại; mô hình hợp tác xã hiện hành đang thoi thóp
biến tướng thành một thứ “tổ phục vụ” và chẳng giúp được gì việc nâng
sản xuất nông nghiệp lên quy mô lớn. Trong các văn kiện chính thống hiện
nay, mọi ngôn từ ca ngợi hình thái hợp tác xã kiểu mới trong nông
nghiệp, coi đấy là một thành tố tạo nên tính định hướng XHCN của nền
kinh tế nước ta, v… v…, thật ra chỉ là sự tự đánh lừa chính mình.
Cũng phải nói sòng phẳng, giả định có nhìn được vấn đề và muốn thực
hiện bước khởi đầu chiến lược 3 ha /1 lao động nông nghiệp, thì hệ thống
chính trị này và bộ máy nhà nước hiện có của nó cũng bất lực – vì
không có trí tuệ và phẩm chất để thực thi, đồng thời hệ thống luật pháp
của nó cũng không kham nổi. Nhìn lại những gì đã xảy ra trong lĩnh vực
đất đai hàng chục năm qua, có thể phán đoán: Dưới chính quyền này, thực
hiện tích tụ ruộng đất chắc chắn sẽ biến thành cướp bóc ruộng đất, rồi
sẽ có hàng triệu nông dân sẽ gia nhập đội quân vô sản thất nghiệp... Chú
ý: Hàn Quốc và Đài Loan nhờ có lộ trình đúng gắn kết nông nghiệp với
công nghiệp hóa và đô thị hóa nên đã tránh được tình trạng “ăn cướp”
trong quá trình tích tụ ruộng đất để hiện đại hóa nông nghiệp.
Hiện nay, mặc dù vẫn là 1 ha ruộng đất / 3 lao động, thế nhưng cả
nước có hàng vạn (hay hàng chục vạn?) người phải đi lao động kiếm sống ở
nước ngoài – hợp pháp hoặc không hợp pháp, không ít người phải sống
chui lủi không còn là người, họ bị bóc lột thậm tệ ở trong nước cũng như
ở nơi họ đi làm thuê. Còn phải kể đến hàng vạn phụ nữ lấy chồng nước
ngoài vì muốn thoát khỏi đói nghèo ở nông thôn. Không hiểu có ai có chức
có quyền cảm thấy xấu hổ cho mình và cho đất nước mình về thực tế này
hay không, mặc dù đây là chuyện không thể ngăn cản và cũng không nên
ngăn cản trong thực trạng đất nước hiện nay. Cuộc sống xảy ra quá nhiều
chuyện khiến tôi thầm lo: Hay là chúng ta đang thiếu hoặc đang mất đi
cảm giác nhận biết thế nào là nhục (tôi lại phải xin lỗi vì dùng cụm từ
chúng ta).
Nói theo lý luận về quan điểm giai cấp và định hướng XHCN của ĐCSVN, có thể kết luận:
Thể chế chính trị hiện thời và tư duy của nó đã kiến tạo nên một thứ
quan hệ sản xuất đang kìm hãm sức phát triển của nông nghiệp nước nhà,
mặc dù trong thời đại thông tin ngày nay nước ta có thể có bất kỳ know
how nào và có thể huy động bất kỳ nguồn lực nào cho một nền nông nghiệp
phát triển cao đáng mong muốn. Thể chế chính trị hiện thời hoàn toàn
không thể làm khác, thậm chí nó bóp chết cách làm khác.
Nhìn lại, xin đừng quên, cho đến nay thể chế chính trị này đã 2 lần
thực hiện đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn theo cách của nó dưới dạng
các mô hình hợp tác xã, nhưng thất bại thảm hại. Thậm chí cả nước hiện
nay có trên 75 triệu thửa ruộng, thuộc quyền sở hữu của 9 triệu 259
nghìn hộ nông dân – nghĩa là vô cùng manh mún, cho đến ngày hôm nay vẫn
chưa làm xong việc dồn điền dồn thửa, vẫn với bình quân cả nước là 1 ha /
3 lao động nông nghiệp.
Hiện nay trong nông nghiệp đang tranh luận sôi nổi vấn đề giảm 2
triệu ha trồng lúa ở đồng bằng Nam Bộ để chuyển sang canh tác cây khác,
nhằm tăng thu nhập cho nông dân đang thua lỗ. Lo nghĩ này đáng trân
trọng, song chưa hẳn chủ trương này là đúng hoặc khả thi. Hiện nay vẫn
chưa tìm ra được những giải pháp thuyết phục cho mọi khâu liên có quan
trong quá trình thực hiện mong muốn này, cũng như cho toàn bộ các vấn đề
có liên quan đến tiêu thụ đầu ra mới (các sản phẩm nông nghiệp khác
không phải lúa). Nghĩa là còn thiếu rất nhiều giải pháp đồng bộ đi kèm,
còn nợ rất nhiều câu trả lời thỏa đáng cho mọi vấn đề đặt ra, cần được
khai phá tiếp.
Cứ giả thiết là trời giúp cho tìm được các giải pháp thỏa đáng cho
mọi vấn đề đặt ra trong việc chuyển đổi 2 triệu ha thôi trồng lúa như
thế, song tựu trung đấy cũng sẽ chỉ là giải pháp tình thế, mang tính
chữa cháy mà thôi. Bởi vì, với diện tích canh tác bình quân nếu mãi mãi
chỉ vỏn vẹn 1 ha /3 lao động như hiện nay, cái nghèo và lạc hậu sẽ tiếp
tục đeo đẳng nông dân nước ta đời đời kiếp kiếp, đồng thời giam hãm
tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa kinh tế đất nước.
Nông nghiệp đã và đang hoàn thành xuất sắc việc bảo đảm an ninh lương
thực, ngày nay chiếm được khoảng 1/5 – 1/4 kim ngạch xuất khẩu cả nước,
đồng thời là yếu tố căn bản góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế, ổn
định quốc gia. Phải nói đấy là những đóng góp vô giá của nông dân vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những thành tựu này cho thấy tiềm
năng to lớn của nông nghiệp Việt Nam. Song tiếc rằng đường lối công
nghiệp hóa – hiện đại hóa của ĐCSVN không thể nhìn nhận vấn đề hiện đại
hóa nông nghiệp như một bộ phận hữu cơ của công nghiệp hóa, gắn kết hữu
cơ với quá trình từng bước đưa lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực
kinh tế khác (công nghiệp, dịch vụ…), do đó không đầu tư cho nông nghiệp
công sức thỏa đáng. Hệ quả là toàn bộ quá trình CNH – HĐH đã phải trả
giá đắt. Nghị quyết số 26 ngày 04.08-2008 về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn tuy có đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đạt chỉ còn tỷ lệ
30% lao động xã hội trong nông nghiệp – một mức còn xa với so với tiêu
chí của một nước công nghiệp, song lại tránh né hoàn toàn vấn đề nan
giải số 1 là giải quyết đòi hỏi “3ha / 1 lao động nông nghiệp” như thế
nào? Vì sợ tránh né này, tuy còn 7 năm nữa, mục tiêu 30% lao động cả
nước làm nông nghiệp chắc cũng sẽ chỉ là trên giấy mà thôi (hiện nay ước
tính là 57%).
Sai lầm nói trên trong nông nghiệp đã tiêu phí mất 28 năm (kể từ khi
đổi mới) và nhiều nguồn lực khác của đất nước. Trong khi đó tài nguyên
quốc gia đã bán đến mức cạn kiệt. Kết quả đạt được là đến hôm
nay là vẫn chưa thấy bóng dáng một nước Việt Nam công nghiệp; đồng thời
quốc gia vẫn chỉ sở hữu một nền nông nghiệp cơ bắp.
Bây giờ vấn đề đất đai đang rối bời. Hiện tượng nông dân mất ruộng và
bỏ ruộng đang tích tụ những căng thẳng mới rất nóng bỏng trong xã hội.
Thể chế điều hành đất nước còn rất nhiều yếu kém và đang bị nạn tham
nhũng lũng đoạn nghiêm trọng. Sự cộng hưởng của quá nhiều bất cập trong
mọi mặt phát triển đất nước tích tụ suốt 3 thập kỷ vừa đang đẩy đất nước
đi vào ngõ cụt. Tất cả đang tạo nên một tình trạng đình đốn rất nguy
hiểm trong phát triển nông nghiệp nói riêng, trong toàn bộ quá trình
công nghiệp hóa nói chung.
Nói thêm về công nghiệp: Điều nguy hiểm không phải ở
chỗ nền công nghiệp Việt Nam hiện nay còn non trẻ, mà ở chỗ: Sau 28 năm
đổi mới, đất nước đang sở hữu một nền công nghiệp phụ thuộc[54], ô
nhiễm, què quặt, trùng lặp, hoàn toàn thiếu tính quy hoạch cho sự phát
triển đồng bộ và sự phát triển tiếp theo… Nói nghiêm túc là cho đến nay
chưa có chiến lược công nghiệp hóa, chưa xác lập được lợi thế của nền
công nghiệp nước ta là gì, không làm rõ được nước ta sẽ trở thành một
nước công nghiệp như thế nào!
Lợi thế so sánh lớn nhất của Việt Nam là con người và đất đai
(hiểu theo cả với nghĩa địa chính trị và địa kinh tế), song cả 2 yếu tố
này đều bị chà đạp, hủy hoại và lãng phí một cách không thương tiếc.
Hiện nay, toàn bộ các yếu tố phát triển kinh tế nói chung và cho công
nghiệp nói riêng theo phương thức phát triển theo chiều rộng (extensive
development) đã được khai thác gần như hết mức, đó là các yếu tố: sức
lao động rẻ, tài nguyên, đất đai, môi trường, tăng trưởng nhờ đầu tư
mới… Kết quả đạt được là một nền công nghiệp gia công là chủ yếu, tiêu
thụ nhiều nguyên liệu và năng lượng, hàm lượng khoa học và công nghệ
thấp, giá trị gia tăng rất thấp, trong khi đó tỷ lệ mức tiêu thụ đầu vào
trên một sản phẩm ngày càng cao[55]. Những lợi thế về lao động rẻ và
địa lý tự nhiên (đất đai, các nguồn tài nguyên khác) đã bị khai thác tới
mức cạn kiệt, môi trường bị tàn phá nghiêm trọng, càng phát triển càng
phụ thuộc vào bên ngoài…
Đặc biệt nguy hiểm là hiện nay các yếu tố phát triển công nghiệp theo
chiều rộng đã được khai thác tới mức trần, nhưng lại chưa tạo ra những
tiền đề khả dĩ đưa nền công nghiệp nước nhà đi vào thời kỳ phát triển
theo chiều sâu và thời kỳ của kinh tế tri thức. Trên tất cả các phương
diện trọng yếu như (1)chất lượng nguồn nhân lực, (2) tiềm lực khoa học
kỹ thuật, (3) sự phát triển của kết cấu hạ tầng vật chất và kỹ thuật,
(4)tạo dựng và phát triển các giá trị, các yếu tố văn hóa và tinh thần
phải có của một xã hội công nghiệp, (5)năng lực quản lý quốc gia… tất cả
đều quá tải so với đòi hỏi của hiện tại và không thể đáp ứng những đòi
hỏi của giai đoạn phát triển mới của công nghiệp nói riêng và của cả nền
kinh tế quốc dân nói chung.
Sau 3 thập kỷ, hiện nay kinh tế nước ta vẫn chưa ra khỏi thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản hoang dã.
Xin đặc biệt lưu ý, khi bắt tay vào quá trình CNH –
HĐH, nhất là từ khi vấn đề thu hút FDI và hội nhập quốc tế được nhìn
nhận đúng tầm quan trọng của nó, đã có không biết bao nhiêu cảnh báo của
trong, ngoài nước – từ các nhà khoa học, đến các giới kinh tế, chính
khách…: Việt Nam cần tận dụng lợi thế nước đi sau để không đi vào vết xe
đổ của nhiều quốc gia trên con đường công nghiệp hóa – đó là phải tránh
trở thành bãi thải công nghiệp của các nước phát triển, các nước đi
trước.
Tiếc rằng, Việt Nam về nhiều mặt đã và đang trở thành một bãi thải công nghiệp như thế.
Tuy những xí nghiệp mía đường, xi-măng lò đứng… đã một thời là những
truyện cổ tích đau lòng, nhưng hiện nay cả nước có hàng trăm công trình
công nghiệp trọng yếu có trình độ công nghệ hạng 3, hạng 4 trở xuống
(trong đó có rất nhiều công trình công nghiệp nhập từ Trung Quốc), với
chi phí sản xuất và mức độ ô nhiễm môi trường đều rất cao. Sản phẩm của
FDI chủ yếu là các mặt hàng gia công và các sản phẩm thô mang tính
nguyên liệu, nguyên liệu sơ chế, sản phẩm trung gian là chính (như xi
măng, thép, bột giấy, các loại khoáng sản khai thác trong nước, alumina
Tây Nguyên…).
Hiện nay một số khu đất lớn ở các vùng trọng yếu trong cả nước đã
được khoanh thành những khu công nghiệp khủng, diện tích mỗi khu là hàng
nghìn, thậm chí hàng vạn ha; mỗi vùng hay khu công nghiệp như thế có
tổng vốn đầu tư (dự kiến) của nước ngoài lên đến vài chục tỷ USD, chủ
yếu để sản xuất các nguyên liệu như thép, các sản phẩm lọc dầu, các loại
sản phẩm khác tiêu thụ nhiều nguyên liệu và năng lượng... để bán cho
nước ngoài. Nói thô thiển, đấy là một dạng bán lao động rẻ, mặt bằng sản
xuất, môi trường, nguyên liệu và năng lượng tại chỗ… Tiếp tục xu hướng
đi sâu vào chức năng “sân sau”, chức năng “bải thải công nghiệp” cho các
nước đi trước như thế, Việt Nam làm sao đi lên hiện đại được? làm sao
tiến lên kinh tế trí thức?...
Ví dụ, đi thăm khu công nghiệp Vũng Áng rộng khoảng 40 km2 (4000 ha,
khoảng 2/3 trên bộ và 1/3 trên mặt biển), tổng đầu tư dự kiến trên 9 tỷ
USD… tôi không sao tránh khỏi lo lắng: Nước ngoài[56] thuê đất và biển
của ta để bê vào nước ta toàn bộ một khâu sản xuất nào đó đã quá “bẩn”
và lỗi thời đối với họ[57]– cụ thể ở đây là để sản xuất thép; giai đoạn I
dự kiến là 7 triệu tấn / năm, giai đoạn II dự kiến sẽ là 15 triệu tấn /
năm… Quặng nhập và mỏ sắt Thạch Khê[58] đang được triển khai và là đầu
vào cho dự án này. Hàng loạt công trình đi kèm là bến cảng, nhà máy
điện…, trong đó có có công trình đưa 1 triệu m3 nước / ngày lấy từ
thượng nguồn bằng đường ống để phục vụ khu công nghiệp - không hiểu sẽ
lấy nước ở đâu, mà ai cũng biết miền Trung khan hiếm nước như thế nào,
khí hậu rất nóng… Sắp tới khu này dự kiến sẽ mở rộng thêm 1000 ha nữa
cho lọc dầu… Tôi không sao hình dung nổi những hệ quả về mọi mặt sẽ xảy
ra cho môi trường, cho nhân dân địa phương, cho cả nước… Chân bước đi
trên vùng đất này, nhưng trong đầu tôi ám ảnh một viễn tưởng thảm họa
môi trường cho vùng này trong tương lai, hàng nghìn công nhân khai thác
mỏ và luyện kim ở đây sẽ đưa nước ta lên nền kinh tế trí thức...
Đối với loại công trình khủng như thế, đất nước và người dân có quyền
có tiếng nói gì? Hay là cứ quyết là xong. Quyết là thi hành! Phải chăng
đất nước ta đang bị biến thành đất nước cho thuê, người dân ta trở
thành kẻ làm thuê ngay trên đất nước mình. Mọi hậu quả về môi trường, về
an ninh, về tiền đồ phát triển… nước ta gánh chịu hết – chỉ để phục vụ
cho việc làm ra một khối lượng thép khổng lồ bán cho nước ngoài!? Trong
những năm qua, đã nhiều lần tôi rãi bầy lo nghĩ này, gần đây nhất là
việc khai thác titan miền Trung, khai thác bauxite trên Tây Nguyên, bây
giờ lại đến mối lo Vũng Áng, nhiều nơi khác nữa!..
Trước mắt đã có lời cảnh báo cho một nơi khác: Không được để khu công nghiệp Chu Lai trở thành bãi thải!
Sắp tới sẽ có thể có khu lọc dầu khủng 27 tỷ USD đầu tư ở Bình Định
của Thái lan – do công ty lọc dầu PPT thực hiện… Tôi thực sự rùng mình,
trong lòng tự hỏi tại sao thiên hạ và phía ta cứ thích bê những thứ
“khủng” đầy ô nhiễm như thế vào nước ta? Khủng như thế là thật đến đâu,
giả đến đâu? Tiền này thực là của ai?.. Nước ta đến nay đã ăn phải không
ít những quả lừa vỹ đại, vốn Đài Loan té ra là vốn Trung Quốc đại lục… …
... Vân vân…
Sắp tới, bên cạnh khu công nghiệp dầu khí khủng Bình Định nói trên,
lại sẽ thêm khu công nghiệp Phú Yên chế biến 8 triệu tấn dầu / năm…
Xin lưu ý: Nước ta mật độ dân số cao nhất châu Á,
nghĩa là đất hẹp người đông, vốn quý nhất của đất nước là con người và
đất đai (bao gồm cả vị trí địa lý), song đem dùng như thế trong thời
toàn cầu hóa hiện đại ngày nay có đáng không? Đất nước ta có thể mở mày
mở mặt với nền công nghiệp “high carbon”, bán lao động cơ bắp, bán không
gian sinh tồn và bán môi trường là chính như vậy không? Là nước đi sau,
nước ta có nhất thiết phải ôm lấy những thứ “khủng” thiên hạ thải ra
như thế không? Vân vân… Trong khi đó khoảng 1/3 đến ½ diện tích các khu
công nghiệp đã xây dựng chưa có người thuê… Chẳng lẽ tôi chỉ là một kẻ
yếu bóng vía mù quáng!?
Trí tuệ cả nước và trên thế giới không thiếu lời giải để ngay từ đầu
có thể tránh cho Việt Nam nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp cho
thiên hạ. Đã có rất nhiều ý kiến, kiến nghị xác đáng từ khi tiến hành
đổi mới 1986 cho hướng đi này. Tất cả chỉ là nước đổ lá khoai.
Song thực tiễn của thể chế chính trị nước ta gần ba thập kỷ vừa qua
cho thấy: (1)quyền lực chính trị, (2) lợi ích nhóm các loại và (3) sự
chi phối của tham nhũng mới là những yếu tố quyết định, chứ không phải
lẽ phải, càng không phải lợi ích tối thượng của quốc gia.
Nơi nơi thi nhau tranh thủ phát triển các dự án, chồng xéo lên nhau,
“cheo” hay không “cheo” không thành vấn đề. Có lẽ càng nhiều dự án và
càng “khủng” thì càng dủng dỉnh cho các túi tham[59]?… Chưa nói đến
nhiều vấn đề rất nhạy cảm của an ninh quốc gia. Có thể thực hiện công
nghiệp hóa quốc gia bằng cách tỉnh nào tranh thủ được cái gì thì làm cái
đó như thế được không!? Dự án càng to càng tốt!..
Thêm vào đó, trong tư duy và văn hóa “nhiệm kỳ” cùng với nền kinh tế
GDP tỉnh không có chỗ đứng cho tầm nhìn và những chiến lược dài hạn,
không có khả năng lựa chọn những quyết định tối ưu chung cho cả nước,
trên thực tế đã vô hiệu hóa không ít những điều đúng đắn, băm nát đất
nước, xé nền kinh tế đất nước thành những mảng hay những vùng cát cứ…
(Ví dụ: Cho đến ngày hôm nay, mọi kế hoạch hay chiến lược phát triển
kinh tế vùng hoàn toàn thất bại, hay chỉ nằm trên giấy). Càng manh mún
tranh giành nhau với tầm nhìn như thế, đất nước mình càng rẻ đi!
Hiện nay GDP p.c. của ta mới khoảng 1500 USD, thế nhưng thể chế
chính trị này và nhà nước của nó hầu như đã không kham nổi, để xảy ra
quá nhiều bất cập, đổ vỡ, bất công và tổn thất; kinh tế hiện nay đang
quá nhiều bế tắc.
Xin thử hình dung: Con đường từ GDP p.c. 1500 USD hiện nay của nước
ta đi tới cái mốc là nước công nghiệp thấp – ví dụ GDP p.c. là 12.000
USD (nghĩa là rất thấp, chỉ bằng ½ GDP p.c. của Hàn Quốc hiện nay) sẽ là
chặng đường vô cùng khó khăn. Bao nhiêu năm nữa mới đạt được? Hệ thống
chính trị này và nhà nước của nó dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối
của ĐCSVN như hiện nay liệu có khả năng tạo ra được sự phát triển như
thế không? Có quản lý nổi một nền kinh tế có quy mô phát triển như thế
không? Vân vân…
Đã đến lúc phải quan tâm đến nhiều hơn xây dựng một khía cạnh khác
nữa quan trọng không kém: Một nước công nghiệp chỉ có thể ra đời trước
hết nhờ có chế độ chính trị, con người và văn hóa của một nước công
nghiệp.
Nói đến cùng: Với tầm nhìn và bản chất của nó, thể
chế chính trị hiện nay không có khả năng đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp và văn minh, thậm chí đang cản trở đất nước trên con đường
này. Các lập luận của một số học giả trong nước và ngoài nước cho rằng
Việt Nam đang sa vào cái bẫy là nước có thu nhập trung bình thấp là xác
đáng. Đây chính là điều cả nước ngay từ bây giờ phải nhìn thấy – trước
hết là các đảng viên ĐCSVN.
Có thể kết luận:
Một nền công nghiệp đất nước hiện có như vậy đang trở thành cái bẫy
giam cầm sự phát triển của đất nước. Nền công nghiệp này là sản phẩm tất
yếu của một thể chế toàn trị, vì thiếu vắng hoàn toàn tiếng nói của xã
hội dân sự và nhà nước pháp quyền - qua đó trí tuệ và lẽ phải gần như bị
loại trừ, chỉ còn lại tiếng nói của chủ nghĩa tư bản hoang dã và nhóm
lợi ích giữ vai trò quyết định.
Hoàn toàn không có cách gì để Việt Nam năm 2020 cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại dựa trên 3 trụ cột là kinh tế thị
trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự.
VII – 1.3. Từ nhiều năm nay nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – chính trị - xã hội toàn diện
Trong 28 năm đổi mới, kinh tế nước ta trải qua một số cuộc
khủng hoảng[60], trong đó cuộc khủng hoảng hiện nay là trầm trọng nhất.
Điều này cho thấy thời kỳ kinh tế đất nước phát triển năng động quá ngắn
(gần như trung bình cứ 6 – 7 năm lại có khủng hoảng)[61], nghĩa là một
quá trình phát triển thường xuyên đứt quãng, hay thiếu tính liên tục
trong chiến lược phát triển của một quốc gia. Phải chăng đấy là hệ quả
không tôn trọng quy luật trong vận hành kinh tế, rồi đến hệ quả của phân
khúc nhiệm kỳ qua các Đại hội Đảng, hệ quả của tư duy và văn hóa nhiệm
kỳ… theo kiểu “tân quan tân chính sách” như ngôn ngữ dân gian thường
nói? Và trước hết, đấy là sự kém cỏi của đội ngũ lãnh đạo Đảng và đoàn
quân trí tuệ của nó.
Sự thật là chiến lược CNH – HĐH đất nước đến năm 2020 tuy được nhất
quán nhấn mạnh trong tất cả các kỳ Đại hội Đảng, nhưng nó chỉ là một
khẩu hiệu nhiều hơn là một chiến lược, thiếu hẳn quy hoạch các bước đi
tiếp nối nhau liên tục, thiếu các chính sách lớn và các chiến lược đi
kèm xuyên xuốt cho thời kỳ công nghiệp hóa – ví dụ chiến lược giáo dục,
chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược phát triển kết cấu hạ
tầng, chiến lược cải cách thể chế chính tri, các cột mốc cho từng chặng
phải đạt được, vân vân…[62]. Thậm chí trong các văn kiện các Đại hội
Đảng, chiến lược công nghiệp hóa được viết lên như các kế hoạch 5 năm
của Chính phủ (nên đọc lại các văn kiện các đại hội toàn quốc của
ĐCSVN)…
Có thể nhận xét: Ngoài các kế hoạch 5 năm cộng lại, cho đến nay khó
mà nói rằng nước ta đã có một chiến lược công nghiệp hóa đất nước theo
đúng nghĩa. Nhưng khẩu hiệu chiến lược về hoàn thành công nghiệp hóa vào
năm 2020 này không bao giờ thiếu vắng, được tùy tiện điều chỉnh, thậm
chí mặc nhiên coi quyết định của các Đại hội Đảng là ý chí của đất
nước!..
Từng Đại hội Đảng đều kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện chiến
lược công nghiệp hóa và tình hình mọi mặt của đất nước. Song cho đến nay
việc kiểm điểm không bao giờ dám đụng tới bất kỳ một sai lầm căn bản
nào đã phạm phải, nhất là những khuyết tật mang tính bản chất của hệ
thống chính trị và vai trò lãnh đạo yếu kém của ĐCSVN. Việc đánh giá
tình hình / nhiệm vụ được làm theo một công thức cho “đủ mâm đủ bát”, có
đúng có sai, có ưu có khuyết, có thành có bại.., với kết luận muôn
thuở: Đường lối của Đảng vô cùng sáng suốt và đúng đắn, chỉ có những yếu kém nhất định trong quá trình vận dụng, thực hiện.
Sự thật là
(1) những khó khăn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong
thời bình vượt ra ngoài khả năng và phẩm chất của lãnh đạo ĐCSVN[63],
(2) sự nô lệ thảm hại của tư duy ý thức hệ vay mượn,
(3) sự tha hóa không ngừng gia tăng của hệ thống chính trị,
(4) sự dối trá trở thành vũ khí biện hộ cho vai trò lãnh đạo hiện
đang nắm giữ của ĐCSVN (được sử dụng để giấu diếm những sai lầm và thất
bại, níu kéo sự tồn tại của chế độ, là công cụ trấn áp phản ứng của nhân
dân, thực hiện các thủ đoạn tranh giành nhau giữa các nhóm lợi ích…).
Đấy chính là 4 nguyên nhân gốc chi phối xuyên suốt quá trình phát triển của Việt Nam sau khi giành được độc lập thống nhất.
Đổi mới xóa bỏ được hệ thống kinh tế bao cấp, tạo ra sự phát triển
ban đầu rất ấn tượng, thế giới ngạc nhiên. Nhưng vì 4 nguyên nhân gốc
còn nguyên vẹn, cho nên không bao lâu Việt Nam rơi vào các cuộc khủng
hoảng nối tiếp nhau không thể tránh được. Tiềm năng to lớn của đất nước
và những thuận lợi bên ngoài Việt Nam tranh thủ được đã làm nên không ít
những dự báo của nước ngoài về “con rồng Việt Nam”, “con hổ Việt
Nam”... Tiếc thay tất cả các dự báo này đều bị 4 nguyên nhân gốc này làm
cho phá sản, không thể đổ lỗi cho bất kỳ lực lượng thù địch nào.
Cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay đất nước đang lâm vào
bắt đầu từ năm 2007 – nghĩa là 1 năm trước khi kinh tế Mỹ và sau đó là
nhiều nước Tây Âu lâm vào cuộc khủng hoảng lớn (năm 2008).
Trong vòng 3 kế hoạch 5 năm trở lại, đây là thời kỳ kinh tế Việt Nam
về đối nội cũng như đối ngoại có quy mô phát triển ngày càng mở rộng, có
nhiều công trình mới, mọi nguồn lực huy động cho phát triển kinh tế
thời kỳ này ngày càng lớn hơn rất nhiều so với những năm trước đó. Sự
tiến triển mới này cùng với những nỗ lực không nhỏ đã thực hiện được cho
tự do hóa kinh tế trong khoảng thời gian này đã mang lại những tiến bộ
nhất định. Nhưng ác thay, đồng thời 4 nguyên nhân gốc nêu trên của hệ
thống chính trị qua sự phát triển này của đất nước cũng có những cơ hội
sinh sôi nảy nở tốt nhất chưa từng có để lũng đoạn thời kỳ phát triển
mới này của đất nước.
Trong 28 năm đổi mới, khoảng gần 3 kế hoạch 5 năm trở lại đây là thời
kỳ có nhiều nguồn lực lớn nhất được huy động vào kinh tế, song cũng là
thời kỳ tham nhũng tiêu cực bùng phát mạnh nhất, làm ăn thua lỗ và thất
thoát cao nhất – tiêu biểu là sự bùng nổ và xẹp bong bóng của thị trường
bất động sản và ngành ngân hàng, hiệu quả đầu tư kém nhất, từ năm 2007
kinh tế đất nước bị đẩy vào cuộc khủng hoảng sâu sắc nhất, lớn nhất kể
từ khi đổi mới, hiện nay chưa có lối ra.
Cuộc khủng hoảng hiện nay chỉ ra rõ nhất: Giai đoạn phát triển kinh
tế ban đầu của Việt Nam đã kết thúc, nhưng hoàn toàn không được chuẩn bị
về mọi mặt (kể cả thượng tầng kiến trúc và hạ tầng xã hội) để chuyển
kinh tế Việt Nam đi vào một thời kỳ phát triển mới.
Trong thời kỳ này, cần đặc biệt lưu ý: Các tập đoàn kinh tế nhà nước
và hệ thống ngân hàng dưới sự chi phối của các nhóm lợi ích là những tác
nhân chính và trực tiếp đã gây ra nhiều đổ vỡ nguy hiểm cho đất nước:
- nhiều tập đoàn kinh tế quốc doanh thua lỗ, hoặc phá sản;
- thị trường bất động sản sụp đổ gây tổn thất hàng trăm nghìn
tỷ đồng cho nền kinh tế. (Ủy ban Giám sát Tài Chính Quốc gia ước khoảng
35% trong dự nợ của thị trường bất động sản là nợ xấu – nghĩa là rất
cao và ở ngưỡng nguy hiểm, hiện nay tồn kho của thị trường bất động sản
ước 1,6 triệu nghìn tỷ đồng; thực trạng này kéo theo đổ vỡ của nhiều
ngành kinh tế khác);
- nợ xấu của các ngân hàng cùng với những hoạt động thâu tóm,
mua bán, sáp nhập, các công ty sân sau, sở hữu chéo trong ngân hàng...
đã tạo ra những vòng luẩn quẩn nguy hiểm không thể kiểm soát của các
dòng tiền, (một số chuyên gia ước đoán nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam
hiện nay khoảng nửa triệu tỷ VNĐ - 500.000 tỷ VNĐ)[64];
- nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước chiếm 70% tổng nợ xấu của
các doanh nghiệp trong cả nước; đáng ngại là riêng tổng nợ xấu cần xử lý
ngay của 80 (trong tổng số 96) tập đoàn kinh tế nhà nước cao 1,6 lần
tổng vốn sở hữu, trở thành những thách đố nan giải;
- trong thời gian này hàng chục nghìn doanh nghiệp nhỏ và vừa
đóng cửa, phá sản, với rất nhiều hệ lụy kinh tế - chính trị - xã hội
nghiêm trọng, nạn thất nghiệp lan rộng..;
- lạm phát, sự biến động của thị trường ngoại tệ và thi trường
vàng, nợ công, thâm hụt ngân sách nhà nước, nhập siêu… là những căn
bệnh kinh niên; riêng nợ công số liệu thống kê công bố chính thức là 55%
GDP (nhưng các chuyên gia Việt Nam ước tính là 95 – 106% GDP, đối với
nước ta là mức rất xấu, vì khả năng trả nợ rất thấp);
- nợ xấu, hàng tồn kho, và vốn chết không cho vay được trở thành những cục máu đông nguy hiểm cho cả nền kinh tế;
- vân vân…[65]
Một nghịch lý nguy hiểm là thị trường trong nước hiện nay không thiếu
vốn, nhưng thiếu dự án và người đi vay có tiềm năng thanh toán, trong
khí đó nhiều sản phẩm làm ra đã lỗi thời và thừa ế, nhưng năng lực đi
vào sản phẩm mới và thị trường mới rất hạn chế, lại đúng lúc kinh tế thế
giới có những chuyển đổi về cơ cấu. Đây chính là một biểu hiện nguy
hiểm của những bế tắc trong kinh tế nước ta.
Chưa nói đến chất lượng yếu kém của các công trình kinh tế đã xây
dựng sẽ tiềm ẩn những hậu quả gì cho tương lai? Ngay trước mắt, trong cả
nước có hàng trăm công trình kết cấu hạ tầng (hồ thủy lợi, cầu cống,
đường xá…) đã xuống cấp ở mức nguy hiểm từ hàng chục năm nay đang đe dọa
những hiểm họa lớn, nhưng bị bỏ bễ quá lâu và không có kinh phí duy tu,
sửa chữa…
Phương thức phát triển kinh tế theo chiều rộng của nước ta đã đi hết
chặng đường của nó, nhất thiết phải đưa nền kinh tế của mình sang thời
kỳ phát triển theo chiều sâu với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Song
toàn bộ thực trạng kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội của đất nước
như vừa trình bầy trên đang dựng lên bức tường chắn kiên cố phía trước.
Làm thế nào bây giờ?
Có ý kiến bào chữa và phản bác: FDI và ODA vẫn đang đổ vào Việt Nam
ầm ầm; hiện nay từ IMF cho đến WB và không ít các tổ chức quốc tế khác…
vẫn không thiếu lời ca ngợi kinh tế Việt nam, tại sao lại nhận định bi
quan như vậy được?
Xin đáp: Việt Nam vẫn là một thị trường trong khu vực ĐNA hấp dẫn
FDI, nên xem đây là cơ hội của đất nước. Tuy nhiên lượng FDI (cả lượng
đăng ký và lượng thực hiện) đã giảm so với thập kỷ trước. Nhưng điều đặc
biệt quan trọng: Vì nhiều lý do, tỷ trọng FDI mang công nghệ cao vẫn
rất thấp, trong đó số các dự án FDI có công nghệ cao vẫn ít và triển
khai chậm. Không thể bỏ qua một sự thật là các nước đối tác đang rất cố
gắng không muốn để Việt Nam được ôm ấp chặt chẽ trong vòng tay Trung
Quốc; ODA và các lời khen hợp khẩu vị cũng nên được xem xét dưới góc độ
này. Nước cung cấp ODA số 1 hiện nay vẫn là Nhật, mặc dù phía ta không
giữ được nhiều cam kết với Nhật trong tiến trình thực hiện, trong khi đó
ODA của các nước khác giảm dần.
Còn một sự thật khác nữa: Nhật, Hàn Quốc vì những lý do tái cấu trúc
kinh tế của họ và vì các lý do địa chính trị tại khu vực ĐNA (trong đó
có v/đ Trung Quốc) đang rất muốn Việt Nam trở thành đối tác chiến lược
về kinh tế - trước hết với nghĩa muốn hợp tác dưới dạng chuyển giao và
gắn bó với kinh tế Việt Nam. Cũng vì những lý do địa chính trị, Mỹ và
nhiều nước phương Tây khác đang rất muốn đẩy mạnh phát triển quan hệ
kinh tế với Việt Nam. Song những yếu kém hiện có của đất nước đang kìm
hãm nghiêm trọng sự phát triển này.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - chính trị của đất nước hiện nay đang tác
động nghiêm trọng đến mọi phúc lợi xã hội; toàn bộ các lĩnh vực giáo
dục, y tế, văn hóa; đạo đức xã hội tiếp tục xuống cấp với biết bao nhiêu
sự việc đau lòng. Đồng thời nạn tham nhũng tiêu cực đang hủy hoại các
thang giá trị trong xã hội ở mức tệ hại nhất kể từ khi đất nước độc lập
thống nhất.
Trong thời kỳ khủng hoảng hiện nay, sự trấn áp của chế độ chính trị
đối với những đòi hỏi của các tầng lớp nhân dân về công lý và công bằng
xã hội, về tự do, dân chủ, quyền con người… hiện đang diễn ra ở mức tệ
hại nhất trong suốt 28 năm đổi mới. Đời sống mọi mặt của đất nước trở
nên ngột ngạt chưa từng thấy. Nhân danh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
đã xảy ra các bản án tai tiếng dành cho những người yêu nước bất đồng
chính kiến, đã xảy ra không ít các vụ dùng bạo lực vũ trang đàn áp sự
phản kháng của nông dân…
Phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 4 – XI mới chỉ nói lên được phần nào tình trạng suy thoái trong ĐCSVN và phần nào sự mất lòng tin của dân. Sự thật trầm trọng hơn thế rất nhiều. Trong khi đó hào quang của lịch sử được đội ngũ trí tuệ của hệ thống chính trị tận dụng đến mòn cả chữ, nhưng không phải để trang trải trách nhiệm đối với lịch sử, cũng không phải để soi rọi cái đau, cái nhục của nghèo hèn hôm nay so với thiên hạ, mà chỉ là để xoa dịu hay khỏa lấp cái đau, cái nhục này.., là để át đi những khát vọng đòi thay đổi của nhân dân. Có quá nhiều thứ bộ máy tư tưởng đưa ra để giữ lòng dân và ca ngợi sự tốt đẹp của chế độ - nghĩa là để lên dây cót – nhưng hầu như chỉ mang nặng tính phô trương và không thật.
Ví dụ: từ khoảng gần một thập kỷ nay việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là trọng tâm số một trong nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng của toàn bộ hệ thống chính trị và cả nước. Song thập kỷ vừa qua lại là thời kỳ xảy ra những tội ác tham nhũng tồi tệ nhất, hệ thống chính trị tha hóa trầm trọng nhất, đời sống xã hội có nhiều mặt xuống cấp nguy hiểm, trấn áp dân cũng ở mức độ cao nhất... Thế nhưng hiện nay các phát ngôn của lãnh đạo cao cấp, các báo chí của toàn hệ thống vẫn đang hàng ngày tiếp tục hết lời ca ngợi thành tựu và những kết quả đạt được của cuộc vận động chính trị trọng đại này. Thập kỷ này còn là thời kỳ ĐCSVN tha hóa nặng nhất, có nhiều chuyện bê bối tệ hại nhất trong lịch sử của mình. Số đảng viên bị kỷ luật và bị kết án khá lớn, có lẽ cũng cao nhất so với thập kỷ trước đó[66].
Quyền lực chính trị, tập đoàn kinh tế quốc doanh, ngân hàng, - 3 thành tố này câu kết với nhau thành nhóm lợi ích. Trong từng nhóm lợi ích lại có các mối quan hệ chéo và các mối liên kết ngang / dọc với ngoài nhóm. Nhóm lợi ích câu kết, liên kết, tranh giành, đấu đá nhau, vô hiệu hóa pháp luật, biến ĐCSVN – với vai trò tự nhận cho mình là đội ngũ tiên phong của giai cấp và của dân tộc – thành cái bình phong bảo vệ nó, biến bộ máy nhà nước thành công cụ thi hành ý đồ của nó… Nhóm lợi ích đang làm mục ruỗng hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, đồng thời băng hoại mọi giá trị và đạo đức. Có bình luận: “nền kinh tế Việt Nam đang bị phá hoại từ bên trong…” (J. Parker).
Phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 4 – XI mới chỉ nói lên được phần nào tình trạng suy thoái trong ĐCSVN và phần nào sự mất lòng tin của dân. Sự thật trầm trọng hơn thế rất nhiều. Trong khi đó hào quang của lịch sử được đội ngũ trí tuệ của hệ thống chính trị tận dụng đến mòn cả chữ, nhưng không phải để trang trải trách nhiệm đối với lịch sử, cũng không phải để soi rọi cái đau, cái nhục của nghèo hèn hôm nay so với thiên hạ, mà chỉ là để xoa dịu hay khỏa lấp cái đau, cái nhục này.., là để át đi những khát vọng đòi thay đổi của nhân dân. Có quá nhiều thứ bộ máy tư tưởng đưa ra để giữ lòng dân và ca ngợi sự tốt đẹp của chế độ - nghĩa là để lên dây cót – nhưng hầu như chỉ mang nặng tính phô trương và không thật.
Ví dụ: từ khoảng gần một thập kỷ nay việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là trọng tâm số một trong nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng của toàn bộ hệ thống chính trị và cả nước. Song thập kỷ vừa qua lại là thời kỳ xảy ra những tội ác tham nhũng tồi tệ nhất, hệ thống chính trị tha hóa trầm trọng nhất, đời sống xã hội có nhiều mặt xuống cấp nguy hiểm, trấn áp dân cũng ở mức độ cao nhất... Thế nhưng hiện nay các phát ngôn của lãnh đạo cao cấp, các báo chí của toàn hệ thống vẫn đang hàng ngày tiếp tục hết lời ca ngợi thành tựu và những kết quả đạt được của cuộc vận động chính trị trọng đại này. Thập kỷ này còn là thời kỳ ĐCSVN tha hóa nặng nhất, có nhiều chuyện bê bối tệ hại nhất trong lịch sử của mình. Số đảng viên bị kỷ luật và bị kết án khá lớn, có lẽ cũng cao nhất so với thập kỷ trước đó[66].
Quyền lực chính trị, tập đoàn kinh tế quốc doanh, ngân hàng, - 3 thành tố này câu kết với nhau thành nhóm lợi ích. Trong từng nhóm lợi ích lại có các mối quan hệ chéo và các mối liên kết ngang / dọc với ngoài nhóm. Nhóm lợi ích câu kết, liên kết, tranh giành, đấu đá nhau, vô hiệu hóa pháp luật, biến ĐCSVN – với vai trò tự nhận cho mình là đội ngũ tiên phong của giai cấp và của dân tộc – thành cái bình phong bảo vệ nó, biến bộ máy nhà nước thành công cụ thi hành ý đồ của nó… Nhóm lợi ích đang làm mục ruỗng hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, đồng thời băng hoại mọi giá trị và đạo đức. Có bình luận: “nền kinh tế Việt Nam đang bị phá hoại từ bên trong…” (J. Parker).
NSƯT Phạm Nhuệ Giang – tác giả bộ phim truyền hình nhiều tập “Trò
đời” chia sẻ, “Thế mới biết nhà văn Vũ Trọng Phụng thật tài. Xã hội Việt
Nam ông miêu tả, sau một thế kỷ sự lố lăng vẫn còn nguyên…”
Đúng ra mọi lố lăng thời Vũ Trọng Phụng phải gọi mọi lố lăng thời nay bằng cụ, nghệ sỹ Nhuệ Goang ạ!
Tiền thuế của dân trong một nước còn nghèo phải gồng lên gánh tải một hệ thống chính trị đồ sộ, cồng kềnh, với những quyền lực khác nhau lồng gép vào nhau: Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể quần chúng[67]. Nhưng hệ thống quyền lực này vừa hoạt động kém hiệu quả, vừa có quá nhiều vùng chồng lấn quyền lực của nhau, có quá nhiều vùng bỏ trống không ai quản – tất cả các thứ “vùng, miền” này là những mảnh đất lý tưởng cho tệ nạn quan liêu tham nhũng, cho lũng đoạn… Sự thật của đất nước những thập kỷ vừa qua cho thấy không một giá trị hay đạo đức xã hội nào có thể tồn tại hay có tiếng nói quyết định của mình trong một hệ thống chính trị nhà nước lồng ghép trong nhà nước như hiện nay. Rốt cuộc, chỉ những người có thực quyền trong hay ngoài ĐCSVN mới là nhà nước đích thực; trong đó luật pháp, lý tưởng thường được diễn giải theo cách “dân chủ của nước ta hơn gấp vạn lần dân chủ của các nước phương Tây”[68].
Ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Hệ thống chính trị của đất nước đã sản sinh ra những cụm từ tiêu biểu cho bản chất và cấu trúc của nó. Đó là sự xuất hiện của những hiện tượng xã hội mang những cái tên gọi như “văn hóa phong bì”, “đấu tranh, tránh đâu”, “sống lâu lên lão làng”, “chính sách cơ cấu”, “tân quan tân chính sách”, “tư duy nhiệm kỳ”, “nền kinh tế GDP tỉnh”, “quan hệ”, vân vân… Nội hàm của những cụm từ này phong phú đến mức ngôn ngữ gần như bất lực trong việc chứa đựng chúng.., cũng có nghĩa là sự tha hóa đạt tới mức vượt ra ngoài khả năng diễn đạt của ngôn ngữ[69]. Vô vàn sự việc xảy ra trong đời sống cho thấy “tư duy nhiệm kỳ”, “nền kinh tế GDP tỉnh” và “quan hệ” là 3 sát thủ chính đang hàng ngày tìm cách giết chết mọi giá trị và hy vọng vốn là nguồn gốc làm nên sức mạnh của một quốc gia.
Tiền thuế của dân trong một nước còn nghèo phải gồng lên gánh tải một hệ thống chính trị đồ sộ, cồng kềnh, với những quyền lực khác nhau lồng gép vào nhau: Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể quần chúng[67]. Nhưng hệ thống quyền lực này vừa hoạt động kém hiệu quả, vừa có quá nhiều vùng chồng lấn quyền lực của nhau, có quá nhiều vùng bỏ trống không ai quản – tất cả các thứ “vùng, miền” này là những mảnh đất lý tưởng cho tệ nạn quan liêu tham nhũng, cho lũng đoạn… Sự thật của đất nước những thập kỷ vừa qua cho thấy không một giá trị hay đạo đức xã hội nào có thể tồn tại hay có tiếng nói quyết định của mình trong một hệ thống chính trị nhà nước lồng ghép trong nhà nước như hiện nay. Rốt cuộc, chỉ những người có thực quyền trong hay ngoài ĐCSVN mới là nhà nước đích thực; trong đó luật pháp, lý tưởng thường được diễn giải theo cách “dân chủ của nước ta hơn gấp vạn lần dân chủ của các nước phương Tây”[68].
Ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Hệ thống chính trị của đất nước đã sản sinh ra những cụm từ tiêu biểu cho bản chất và cấu trúc của nó. Đó là sự xuất hiện của những hiện tượng xã hội mang những cái tên gọi như “văn hóa phong bì”, “đấu tranh, tránh đâu”, “sống lâu lên lão làng”, “chính sách cơ cấu”, “tân quan tân chính sách”, “tư duy nhiệm kỳ”, “nền kinh tế GDP tỉnh”, “quan hệ”, vân vân… Nội hàm của những cụm từ này phong phú đến mức ngôn ngữ gần như bất lực trong việc chứa đựng chúng.., cũng có nghĩa là sự tha hóa đạt tới mức vượt ra ngoài khả năng diễn đạt của ngôn ngữ[69]. Vô vàn sự việc xảy ra trong đời sống cho thấy “tư duy nhiệm kỳ”, “nền kinh tế GDP tỉnh” và “quan hệ” là 3 sát thủ chính đang hàng ngày tìm cách giết chết mọi giá trị và hy vọng vốn là nguồn gốc làm nên sức mạnh của một quốc gia.
Chính sách ngu dân, sự bưng bít thông tin, cùng với sự tha hóa của
đạo đức và lối sống – con đẻ của quan liêu tham nhũng và bất công xã hội
– đang tàn phá nghiêm trọng đời sống tinh thần của đất nước. Tâm lý
thờ ơ, vô cảm, mất phương hướng, mất lòng tin, không cần quan tâm đến
trách nhiệm và đến tương lai (cái gọi là chủ nghĩa mackeno) đang lan
rộng ở mức nguy hiểm trong xã hội. Việc dư luận viên đã tới mức phải
dùng đến cả sổ hưu làm công cụ biện hộ cho các lý lẽ bảo toàn chế độ và
sự vô cảm ẩn chứa nhiều tâm trạng trái ngược nhau của người nghe cho
thấy sự khốn quẫn trong trạng thái tinh thần của đất nước đã tới mức
hoàn hảo! Còn điều nào đau lòng hơn? …Giữa lúc đất nước cần xốc lên tinh
thần quật cường của cả dân tộc trong giai đoạn đầy sóng gió hiện nay
của đất nước...
Sự giả dối và trấn áp nhân danh “giữ vững định hướng” của bộ máy tư
tưởng và hệ thống báo chí lề phải càng làm cho tình hình tồi tệ hơn. Đến
mức khoảng một năm nay, lần đầu tiên trong lịch sử đất nước xuất hiện
trong ngôn ngữ chính thống cụm từ “đội ngũ dư luận viên”!.. Nghĩa là để
thực thi bạo lực trấn áp bây giờ có thêm binh chủng “dư luận viên” bên
cạnh những binh chủng sẵn có khác. Trong lãnh đạo đã có người công khai
nói lên niềm tự hào của mình về sự đông đảo của “đội ngũ dư luận viên”
này… (!) Người ta không thể không liên tưởng đến những cụm từ “móc
ngoặc”, “bọn móc ngoặc”, “con phe”… xuất hiện trong thời kỳ bao cấp và
tem phiếu cách đây ba thập kỷ. Chỉ có điều khác biệt là những cụm từ này
là do nhân dân hồi ấy tặng những người làm các việc không chính đáng
này với hàm ý phê phán; còn cụm từ “đội ngũ dư luận viên” lại là sản
phẩm trí tuệ của ĐCSVN, nói lên nội dung một việc làm đang được ĐCSVN
thực thi và tôn vinh.
Trong mọi sự tha hóa đất nước đang phải trải qua, có lẽ sự dối trá là
nghiêm trọng nhất, là cái đẻ ra mọi tha hóa khác, đang hủy hoại mọi giá
trị của đời sống mà tầm tay sự dối trá có thể với tới!
Thất bại nào trong đối nội cũng là tổn thất rất to lớn đối với đất nước. Nhưng điều làm tôi trăn trở nhất là những thất bại trong nền giáo dục của nước nhà. Tôi thực sự lo lắng không biết nước ta rồi đây – khi ra khỏi cuộc khủng hoảng nguy hiểm này và thiết lập nên được một hệ thống chính trị mới - sẽ phải cần bao nhiêu năm hay bao nhiêu thế hệ nữa, để có thể lấy lại được và xây dựng mới những giá trị tạo dựng nên những thế hệ con người mới không thể thiếu cho một nước Việt Nam phát triển, hiện đại, dấn thân và cùng đi được với cả thế giới! Cần một chế độ chính trị như thế nào để có thể kiến tạo một nền giáo dục đất nước phải có?!..[70]
Thất bại nào trong đối nội cũng là tổn thất rất to lớn đối với đất nước. Nhưng điều làm tôi trăn trở nhất là những thất bại trong nền giáo dục của nước nhà. Tôi thực sự lo lắng không biết nước ta rồi đây – khi ra khỏi cuộc khủng hoảng nguy hiểm này và thiết lập nên được một hệ thống chính trị mới - sẽ phải cần bao nhiêu năm hay bao nhiêu thế hệ nữa, để có thể lấy lại được và xây dựng mới những giá trị tạo dựng nên những thế hệ con người mới không thể thiếu cho một nước Việt Nam phát triển, hiện đại, dấn thân và cùng đi được với cả thế giới! Cần một chế độ chính trị như thế nào để có thể kiến tạo một nền giáo dục đất nước phải có?!..[70]
VII – 1.4. Thất bại lớn nhất của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc nằm trong mặt trận đối ngoại
Thời bình, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc chủ yếu diễn ra trên mặt
trận đối ngoại. Vì lẽ này, tôi xin tập trung trình bẩy một số ý kiến
của mình trên phương diện này. Những vấn đề khác liên quan đến vấn đề
bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ biên giới trên bộ, và các
vùng biển, đảo… xin được bàn vào một dịp khác.
Cũng như các phần trên, tôi xin đặt sang một bên cho một
dịp khác việc đánh giá các thành tựu đạt được. Trong phần này xin tập
trung tìm hiểu những việc chưa làm được, những thiếu sót hoặc sai lầm.
Chuỗi các sai lầm đầu tiên rất trầm trọng với nhiều hậu quả lâu dài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực chất chứa trong lòng nó 7 cuộc chiến tranh. Đó là:
(1) cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược;
(2) cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc trực
tiếp xảy ra trên đất Việt Nam, nước ta tự nhận về mình nghĩa vụ là một
tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa;
(3) cuộc chiến tranh tranh giành ảnh hưởng trên thế giới giữa một
bên là Liên Xô và liên minh và một bên là Mỹ và liên minh trên đất Việt
Nam (một hình thái thể hiện cụ thể của “chiến tranh lạnh 1945 – 1991”
diễn ra trên đất Việt Nam);
(4) cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ trên đất Việt Nam - với
mục tiêu giữ kẻ thù Mỹ của Trung Quốc càng xa biên giới Trung Quốc càng
tốt, với ý chí của Trung Quốc tọa sơn quan hổ đấu và quyết tâm chống Mỹ
đến người Việt Nam cuối cùng..;
(5) cuộc chiến tranh tranh giành ảnh hưởng trên thế giới và trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế giữa Liên Xô và Trung Quốc;
(6) cuộc chiến tranh của phong trào độc lập dân tộc chống chủ nghĩa
thực dân, đế quốc, trong đó Việt Nam là một ngọn cờ tiêu biểu; và
(7) việc thực dân Pháp và đế quốc Mỹ hồi ấy tiến hành âm mưu chia cắt
lâu dài Việt Nam đã dẫn tới chiến tranh Bắc – Nam 1954 – 1975, đấy là
một cuộc nội chiến kéo dài và đẫm máu.
Đấy là thực tế lịch sử khách quan đã xảy ra.
Việc mổ xẻ các khía cạnh để phân tích 7 cuộc chiến tranh trong 1 cuộc
chiến tranh như vậy không thuộc phạm vi bài này. Tuy nhiên, điều tất
yếu có thể rút ra tại đây là: Khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, khách
quan của sự vật đòi hỏi nước ta phải giải quyết hậu quả và mọi hệ quả
liên quan về sau của tất cả 7 cuộc chiến tranh này.
Nhưng khi kháng chiến kết thúc, chủ trương chính sách đối ngoại của
nước ta hồi ấy lại không nhận thức được hay không thừa nhận điều tất yếu
này.
Sẽ phải tốn rất nhiều công sức mổ xẻ ngoại giao của nước ta thập kỷ đầu tiên sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc.
Theo nhận thức của tôi, xin được kết luận ngay như thế này: Vì bỏ qua
điều tất yếu nói trên, ngoại giao nước ta khi ra khỏi chiến tranh vừa
say sưa chiến thắng, vừa có nhiều bất cập và bị động nghiêm trọng; nhất
là thiếu vắng hẳn truyền thống ngoại giao Việt Nam của cha ông ngàn xưa:
Đó là luôn luôn biết giữ thể diện cho các kẻ thù sau khi ta đánh bại
họ, chủ động bình thường hóa quan hệ với họ… Vì mục đích “lên dây cót”
cho dân, cho đến hôm nay lúc này lúc khác vẫn ra rả làm bẽ mặt đối
phương cũ, nhưng lại không rút ra những bài học cần rút ra.
Đất nước ta đã phải trả giá rất đắt cho thiếu vắng sự hiểu biết này sau kháng chiến chống Mỹ!
Ra khỏi kháng chiến (7 cuộc chiến tranh), lại trong bối cảnh phe xã
hội chủ nghĩa[71] không còn là một hệ thống thế giới thống nhất (Trung
Quốc và Mỹ đi với nhau từ 1972), ngay lập tức nước ta phải đối phó với
(a) những kẻ ta đã đánh bại nhưng không chịu buông tha nước ta: Trung Quốc, Mỹ;
(b) thân phận nước ta không thể tránh được là nước “bên
thứ ba” trong cuộc tranh chấp không dứt giữa các cường quốc, giữa cộng
sản và chống cộng sản, nhất là trên địa bàn ĐNÁ thời đó - trong đó đặc
biệt là 3 nước Đông Dương - là một điểm nóng;
(c) những nhiệm vụ vô cùng nan giải nhằm khắc phục những
hậu quả sâu sắc của sự tương tàn Bắc – Nam và phục hồi đất nước sau
những thập kỷ chiến tranh tàn khốc.
Song sự lựa chọn của lãnh đạo lại là thừa thắng xông lên, tiến thẳng
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội: “tiến lên chủ nghĩa xã hội là xu thế tất
yếu của thời đại”, “sự lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn
của dân tộc Việt Nam”, “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội” ???
Vân vân…[72]?
Lịch sử không làm lại được, nhưng có lẽ lịch sử có thể giúp ta suy
luận: Để giải quyết 3 thách thức (a, b, c) nói trên sau khi ra khỏi
chiến tranh, Việt Nam lẽ ra phải vận dụng những kinh nghiệm sống còn đã
làm nên thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ; đó là (1)phát huy sức mạnh
dân tộc, và (2) tranh thủ sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ.
Song làm sao phát huy sức mạnh dân tộc, nếu không thực hiện được hòa giải dân tộc ngay sau khi chiến tranh kết thúc?
Sự thật là ngay sau 30 Tháng Tư, với tính cách là người chiến thắng,
ĐCSVN là người duy nhất có cơ hội và có đủ quyền lực trong tay thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ khó khăn và vô cùng nhạy cảm này: Hòa giải dân tộc.
Nhưng tư duy ý thức hệ dứt khoát không chịu nhìn nhận trong 7 cuộc
chiến tranh của kháng chiến chống Mỹ mà đất nước lâm vào có cuộc nội
chiến. Cho đến ngày hôm nay vẫn vậy.
Do đó đã không đặt ra vấn đề hòa giải dân tộc. Hệ quả là (1)vết
thương nội chiến cho đến hôm nay vẫn bị bỏ qua không được hàn gắn, chẳng
những thế mà còn để xảy thêm những chết chóc, tổn thất mới đau lòng
(các vấn đề “nạn kiều”, “thuyền nhân”, cải tạo tư sản…) và bao nhiêu tổn
thất khác; (2) nội hàm đích thực của phát huy sức mạnh dân tộc là áp
đặt duy ý chí tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Thực trạng đã xảy ra sau 30-04-1975 là: Trong khi vết thương nội
chiến cũ còn nguyên vẹn, đất nước phải chịu đựng thêm những thất bại
nghiêm trọng về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại… của duy ý
chí “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Do đó cho đến hôm
nay, vẫn không thể phát huy sức mạnh dân tộc với đúng nghĩa, đất nước
bị làm yếu đi nghiêm trọng giữa lúc phải đối phó với không biết bao
nhiêu thách thức ngổn ngang.
Nói ra hay không nói ra, không đặt ra vấn đề hòa giải dân tộc một
cách thực tâm, trên thực tế và trong thâm tâm có nghĩa ĐCSVN tiếp tục
coi phía bên kia chiến tuyến cũ vẫn là thù địch. Càng để lâu, vết thương
dân tộc này càng khó khắc phục. Ngày nay, trong tình trạng tha hóa trầm
trọng của chế độ chính trị, vết thương này tự nó sâu sắc thêm, hoặc tâm
lý hận thù cũ đang cố ý làm cho vết thương này sâu sắc thêm!.. Tất
nhiên, chỉ có đất nước phải gánh chịu mọi hậu quả mới tiếp theo. Điều vô
cùng phi lý: Tại sao ĐCSVN đã thực hiện khép lại quá khứ với Mỹ, mà lại
không khép lại quá khứ với một nửa khác của chính mình bên kia chiến
tuyến thời chiến tranh?
Song quan trọng hơn thế, chừng nào ĐCSVN hôm nay chưa thực tâm khắc
phục vết thương dân tộc này, chừng nào còn xem nhẹ vấn đề hòa giải dân
tộc mãi mãi, thực tế này phải chăng chỉ càng cho thấy: ĐCSVN của hôm nay
không muốn giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ chấn hưng đất nước,
đơn giản vì ĐCSVN hôm nay không có bản chất này và do đó cũng không có
năng lực làm việc này. Đơn giản là ĐCSVN hôm nay không coi đó là mục
tiêu cách mạng của mình. Có phải như vậy không? Nếu đúng như thế thì
nguy hiểm quá. Từng đảng viên trong ĐCSVN phải xem lại sự biến chất này
so với khi ĐCSVN làm Cách mạng Tháng Tám và tiến hành các cuộc kháng
chiến.
Kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, ngoài sức mạnh kiên cường của dân
tộc, còn có nguyên nhân quan trọng không thể thiếu: Sự ủng hộ của toàn
thể loài người tiến bộ. Nhân dân ta đã nhận được sự giúp đỡ anh em của
các nước xã hội chủ nghĩa hồi ấy; nhân dân ta còn được các lực lượng yêu
chuộng hòa bình và công lý khắp thế giới và ngay cả trên nước Mỹ cổ vũ,
hậu thuẫn, được phong trào phản chiến của những lực lượng này tiếp sức.
Xin nói ngay, sự cổ vũ, hậu thuẫn của phong trào phản chiến nói trên
là dành cho những giá trị của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân
Việt Nam mà những lực lượng tiến bộ này của thế giới chia sẻ. Xin đừng
ngộ nhận đấy là sự ủng hộ Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội – mặc dù những lực lượng tiến bộ này của thế giới biết rất rõ
cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam do ĐCSVN lãnh đạo. Mỹ thất bại
trong cuộc chiến tranh này còn có nguyên nhân là thế giới tiến bộ không
chấp nhận một siêu cường đem vũ lực của mình bóp chết ý chí của một dân
tộc đấu tranh giành độc lập tự do – đó là Việt Nam.
Có thể kết luận: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chứng minh hùng
hồn: Để bảo vệ mình, Việt Nam phải đi với cả thế giới, phải đứng trong
hàng ngũ tiến bộ của nhân dân thế giới. Cuộc kháng chiến này còn là sự
đóng góp trực tiếp của Việt Nam vào hòa bình và các giá trị tiến bộ của
thế giới, đó cũng là sự dấn thân trực tiếp của Việt Nam trong trào lưu
tiến bộ của nhân loại. Thực tế này đã góp phần trực tiếp làm nên sức
mạnh bất khả kháng của Việt Nam.
Trong thời bình bảo vệ tổ quốc lại càng phải làm như vậy. Nhưng trong thời bình, ĐCSVN đã không làm như vậy.
Nhìn lại thời hậu chiến, nước ta làm không tốt (1)nhiệm vụ phát huy
sức mạnh toàn dân tộc và (2) nhiệm vụ phát huy sức mạnh cùng đi với cả
thế giới tiến bộ ngang tầm với những thách thức và cơ hội đặt ra. Vì 2
khuyết điểm này, nên đã vấp phải nhiều thất bại nghiêm trọng về đối nội
cũng như đối ngoại. Đất nước bị suy yếu và uy hiếp nhiều mặt.
Những sai lầm này đã được Khmer đỏ khai thác triệt để cho cuộc chiến
tranh chống Việt Nam. Những sai lầm này tạo thêm thuận lợi cho Trung
Quốc xâm lược biên giới phía Bắc Việt Nam tháng 2 – 1979, vào hùa với Mỹ
cô lập và bao vây cấm vận chống Việt Nam cả một thập kỷ sau chiến
tranh. Những sai lầm nay làm cho quá trình hội nhập quốc tế sau đó của
nước ta diễn ra cực kỳ chật vật, quanh co, nhiều cơ hội quan trọng bị bỏ
lỡ[73].
Đấy là những sai lầm rất nghiêm trọng trong nhiệm vụ bảo vệ đất nước ở thời kỳ này, để lại nhiều hệ lụy cho hôm nay.
Có không ít ý kiến biện hộ: …Những sai lầm như thế vấp phải trong
thời hậu chiến là tất yếu, là bất khả kháng trong bối cảnh quốc tế và
khu vực lúc đó… Không thể vỗ cánh bay qua bối cảnh lịch sử và đốt cháy
giai đoạn trong tư duy…
Những lập luận như thế không hoàn toàn vô lý, thậm chí có nhiều khía
cạnh xác đáng. Lịch sử cũng không thể làm lại được. Nhưng nếu muốn lịch
sử là người thầy cho hiện tại và cho tương lai, nhất thiết cần mổ xẻ
tới căn nguyên mọi sự việc đã xảy ra.
Riêng tôi xin thưa: Suy cho cùng, điều đau lòng vẫn là tầm trí tuệ
hạn hẹp và sự nhìn nhận thiên lệch của tư duy ý thức hệ của lãnh đạo hồi
ấy về thế giới bên ngoài cũng như về lợi ích quốc gia, khiến cho đất
nước rơi ngay vào chặng đường đau khổ mới, ngay sau khi vừa ra khỏi
chiến tranh. Có phải sự thật là như vậy không? ĐCSVN nói riêng và là
người Việt Nam nói chung có lẽ nên suy ngẫm về quãng đường lịch sử không
ít máu và nước mắt này. Tôi không dám cho mình cái quyền giữ chân lý về
mình, nhưng tôi thực sự nghĩ như thế, đinh ninh như thế. Xin được chia
sẻ để cùng tham khảo. Vì không nói ra cũng sẽ là có tội với đất nước.
Còn chuyện đúng / sai, để cho sự thật phân giải, để cho mọi người sẽ
phân giải.
Hơn nữa, nhìn rõ thế giới, hiểu đúng lợi ích quốc gia của ta – điều
này luôn luôn là vấn đề nóng bỏng và có ý nghĩa mất / còn đối với hiện
tại và của tương lai của đất nước.
Có thể kết luận: Sau kháng chiến, không phát huy được sức mạnh dân
tộc, không cùng đi được với thế giới như vậy, thế là sai lầm. Đất nước
yếu đi nghiêm trọng cả về thế và lực, nên đã phải trả giá đắt.
Đã 38 năm trôi qua. Nhưng hôm nay nhìn lại, trong
lòng tôi canh cánh nỗi niềm: Phải chăng một cơ hội lịch sử của dân tộc
ngàn năm mới có một lần đã bị bỏ lỡ? – ngàn năm với cả nghĩa đen của cụm
từ này –[74].
…Giả định rằng ngay sau 30-04-1975, ĐCSVN với tư cách là người chiến
thắng (nói theo Huy Đức là “bên thắng cuộc”) chủ trương hòa giải dân
tộc, giương cao ngọn cờ dân chủ, và với ý thức “không gì quý hơn độc lập
tự do!”, nỗ lực dẫn dắt đất nước phấn đấu đổi đời cả dân tộc, để trở
thành một quốc gia của các giá trị mà ĐCSVN đã từng ghi trên lá cờ của
mình là “dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc”, đã từng nói lên
thành lời ý chí này trong Tuyên ngôn Độc lập 02-09-1945, đã từng thể
hiện ý chí này thành pháp quyền trong Hiến pháp 1946… Ôi, giả thử xây
dựng nên một Việt Nam như thế và cùng đi như thế với cả thế giới!.. Ôi,
nếu từ ngày ấy đi theo con đường này, hôm nay nước ta sẽ là gì và đang
đứng ở đâu! ĐCSVN hôm nay sẽ là đảng gì, thế giới sẽ nhìn nhận Việt Nam
ra sao!?..
Tôi không trả lời được những chữ “nếu” như vậy.
Nhưng trong lòng tôi hôm nay vẫn dào dạt tâm trạng biết ơn những tình
cảm tốt đẹp nhất nhân loại tiến bộ hồi ấy đã từng dành cho tinh thần
yêu độc lập tự do của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mỹ: “Việt Nam
là lương tri của thời đại!”, “Việt Nam trong trái tim tôi!...”
Vâng, lịch sử không làm lại được. Nhưng nếu ngày nay học được từ lịch sử!
Vâng, sau 30 Tháng Tư Bẩy Nhăm cái giá dân tộc ta phải trả tiếp cho ý thức hệ và sự ngu dốt thật đắt quá, đau quá!
Xin thưa lại chuyện cũ. Trong lịch sử cận đại, Việt Nam khi đã hoàn
toàn ổn định lại dưới thời Gia Long, đất nước đã từng bỏ lỡ cơ hội để
tìm một con đường như nước Nhật hồi ấy (thời Minh Trị) đã tìm được. Có
nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân gốc có thể là thế giới quan hồi ấy
của đất nước là Khổng giáo và Nho giáo, thế giới đối với Việt Nam hồi ấy
hầu như chỉ là Trung Quốc. Nói nôm na: Với cái lõi nhân văn này và tầm
nhìn này của triều Nguyễn lúc thịnh, Việt nam không thể đi xa hơn, không
thể với tới xa hơn, hệ quả cuối cùng đối với số phận của đất nước như
chúng ta đã biết. Có gì đau đớn hơn cho một dân tộc khi bỏ lỡ cơ hội
lịch sử?[75]
Làm sao chúng ta có thể chia sẻ với nhau bây giờ và với mọi thế hệ mai sau: Đừng bao giờ để cho đất nước bỏ lỡ cơ hội lịch sử!..
Thế nhưng… Vâng, thế nhưng…
…
(1) Hiện nay và trong tương lai, làm thế nào để phát huy sức mạnh dân tộc?
(2) Làm thế nào để nước ta có thể dấn thân cùng đi với cả thế giới?
Đấy vẫn là 2 câu hỏi lớn phía trước.
(1)Tư duy ý thức hệ, (2) sự giác ngộ chưa đúng tầm lợi ích
quốc gia và lợi ích dân tộc, (3) sự hẫng hụt của trí tuệ và phẩm chất
lãnh đạo đất nước, đấy vẫn là 3 rào cản chính đang tiếp tục cản trở lãnh
đạo ĐCSVN đi đến những câu trả lời đúng đắn phía trước phải có cho 2
câu hỏi sống còn nêu trên đối với đất nước hôm nay.
Vâng, thế nhưng… Cái giá phải trả cho bước ngoặt định mệnh
Chiến tranh biên giới tháng 02 - 1979 của Trung Quốc chống Việt Nam
lại đột nhiên rộ lên ác liệt tháng 04 – 1984, khi hàng nghìn lính Trung
Quốc ồ ạt tấn công chiếm địa danh Núi Đất (tại xã Thanh Thuỷ, huyện Yên
Minh, tỉnh Hà Tuyên, nay là tỉnh Hà Giang.[76]). Nhưng hồi ấy nội tình
Trung Quốc vẫn tiếp tục đầy rẫy khó khăn. Tháng 5 – 1989 xảy ra vụ đàn
áp đẫm máu Thiên An Môn là hệ quả tất yếu. Trong khi đó Trung Quốc vẫn
tiếp tục bắn phá trên biên giới nước ta; tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7
đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, tiếp tục gây sức ép với ta trong đàm
phán bình thường hóa quan hệ 2 nước và trong giải quyết vấn đề
Campuchia, cùng với Mỹ tiếp tục bao vây cô lập nước ta.
Trong khung cảnh như vậy, các nước LXĐA sụp đổ (1989 -1991). Việt Nam
chấp nhận yêu sách của Trung Quốc, đến hội nghị Thành Đô (ngày 3 & 4
– 09/1990) để hoàn tất việc bình thường hóa hai nước và việc giải quyết
vấn đề Campuchia. Lãnh đạo Việt Nam hồi ấy coi bước đi này là con đường
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ đất nước. Bước đi này cột
chặt nước ta vào Trung Quốc đến bây giờ chưa gỡ ra được, với mọi hệ lụy
tác động nghiêm trọng vào toàn bộ con đường phát triển của đất nước và
sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hôm nay[77].
Nhìn thực trạng quan hệ Việt – Trung mọi mặt hôm nay, nhìn vào thực
trạng đất nước từ sau 30-04-1975, chưa bao giờ nước ta bị suy yếu và bị
thách thức nghiêm trọng như hiện tại. Tôi nghĩ rằng thực trạng này bắt
đầu từ hội nghị Thành Đô. Tôi nghĩ, đây là sai lầm đối ngoại lớn nhất
mang tính chiến lược của lãnh đạo nước ta kể từ sau 30-04-1975. Rất mong
bước đi này được mổ xẻ cặn kẽ, để nhìn nhận hiện tại và tiên liệu tương
lai cho đất nước[78].
Lại phải nói, lịch sử không làm lại được, nhưng phải chăng cho phép đặt ra những câu hỏi:
- Khi các nước LXĐA sụp đổ, có hay không cơ hội cho
Viêt Nam bứt ra khỏi mọi lệ thuộc vào bất kỳ ai, để thực sự là nước độc
lập tự chủ, đi với cả thế giới tiến bộ?
- Phải chăng lợi ích quốc gia đã bị đẩy xuống dưới, để ưu tiên bảo toàn chế độ chính trị với bất kỳ giá nào?
- Bình thường hóa quan hệ và thiết lập quan hệ hữu nghị với
Trung Quốc là tối cần thiết. Song có thể đi với Trung Quốc để cùng nhau
bảo vệ CNXH giữa lúc quan hệ Việt – Trung có không biết bao nhiêu sự
kiện nước ta bị phản bội và rất đẫm máu?[79]
- Đi với Trung Quốc như thế, hôm nay nước ta mạnh lên hay yếu đi?
- Phải chăng nhận thức thế giới và lợi ích của đất nước qua
lăng kính ý thức hệ, cùng với sự tha hóa phẩm chất cách mạng, đã tất yếu
dẫn tới bước đi định mệnh này?
- Nói rốt ráo hơn nữa: Phải chăng đã là ĐCSVN thì chỉ có thể
lựa chọn như vậy trong tình huống các nước XHCN Đông Âu sụp đổ? – Vì tư
duy ý thức hệ không có chỗ cho sự lựa chọn khác, không muốn lựa chọn
khác?[80]
- …
Vận mệnh quốc gia đòi hỏi phải mất công sức tìm ra những câu trả lời chuẩn xác.
Muốn xây dựng quan hệ láng giềng tốt và bền vững không thể thiếu với
Trung Quốc, càng phải rút kinh nghiêm những chặng đường đã qua để có bản
lĩnh thực hiện đúng đắn mục tiêu này.
Phải chăng có thể kết luận: Vì bất kể lý do gì –
hoàn cảnh lịch sử và tình hình phát triển thấp của đất nước, bối cảnh
quốc tế bất khả kháng, sự trói buộc của ý thức hệ, sự hẫng hụt của trí
tuệ và phẩm chất trong nhận thức thế giới và trong giác ngộ giác ngộ lợi
ích quốc gia, sự tha hóa của đạo đức, vân vân… - suốt 38 năm qua, tất
cả những hệ lụy của những sai lầm và thất bại trong lĩnh vực đối nội
cũng như đối ngoại, tất cả những việc gì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc đòi hỏi phải thực hiện nhưng chưa làm được, đất nước đều phải trả
giá.
*
Sau 38 năm kể từ khi giành lại độc lập thống nhất, nói chuẩn xác hơn
sau 28 năm đổi mới, Việt Nam đã hoàn thành giai đoạn phát triển đầu tiên
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời bình. Đây là thành
tựu rất to lớn của đất nước.
Một sự thật khách quan là sau 30-04-1975 những công việc phải làm là
những nhiệm vụ vô cùng khó khăn của một nước chịu nhiều hậu quả của
chiến tranh (với nghĩa là 7 cuộc chiến tranh trong một cuộc chiến tranh)
tàn phá nặng nề và kéo dài, lại phải tiến hành trong những điều kiện
đối ngoại rất khó khăn phức tạp.
Về nhiều mặt, những nhiệm vụ phải hoàn thành trong thời kỳ này nhìn
chung đều vượt quá tầm với của bất kể đội ngũ lãnh đạo nào đất nước hồi
ấy có thể có được. Bởi vì đấy là những nhiệm vụ rất khó, chưa có tiền
lệ. Những sai lầm và thất bại nhất định đã vấp phải là điều không thể
tránh khỏi. Không thể có bất kỳ một đội ngũ lãnh đạo toàn năng nào, dù
là được thượng đế ban cho nước ta, cứ được đặt vào vị trí là có thể hoàn
thành được những nhiệm vụ phải làm ấy. Đây cũng là một thực tế khách
quan.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là bản chất của hệ thống chính trị,
trước hết là đội ngũ nòng cốt của nó là ĐCSVN, thiếu hẳn tố chất dân chủ
và học hỏi trong thời bình, do đó rơi vào tình trạng:
- Khi nhận thức ra sai lầm, đã tiến hành được công cuộc đổi
mới năm 1986, và đã xoay chuyển hẳn được tình thế trong phát triển kinh
tế, nhưng cũng chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà thôi, không thể đi tiếp
sang cải cách chính trị mà sự nghiệp phát triển của đất nước đòi hỏi.
- Trong quá trình cầm quyền, vì thiếu tố chất của dân chủ và
học hỏi, lại không có một hệ thống chính trị dân chủ làm được các chức
năng: cọ sát, sàng lọc, thải loại, quyền phải được ràng buộc với trách
nhiệm giải trình, thực hiện công khai minh bạch.., nên hệ thống quyền
lực của ĐCSVN tha hóa thành hệ thống quyền lực cai trị - (nhóm Kiến nghị
72 gọi đấy là hệ thống quyền lực của chế độ toàn trị). Trở thành một hệ
thống chính trị như thế, trước hết là ĐCSVN trở thành một đảng toàn
trị, nắm trọn mọi quyền thế. Hệ quả dẫn tới: Sai lầm xảy ra nối tiếp sai
lầm, tha hóa ngày càng tha hóa, khiến cho đất nước vấp phải những thất
bại nặng nề, và hiện đang rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng[81].
Bản tổng kết 38 năm qua của ĐCSVN phải chăng như sau:
- So với mục tiêu chiến lược của ĐCSVN đã đề ra trong các cương lĩnh và trong các nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng,
- so với nhiệm vụ thực hiện dân chủ, độc lập, tự do, hạnh phúc cho đất nước và cho nhân dân mà ĐCSVN đã cam kết,
- so với công sức và nguồn lực đất nước đã bỏ ra,
- so với các cơ hội to lớn đến với đất nước và so với mọi nguồn lực bên ngoài đất nước ta đã tranh thủ được,
- so với những thành quả lẽ ra đất nước phải giành được và
triển vọng phải có cho giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước,
- so với hệ thống chính trị hiện hành có quá nhiều khuyết tật
đang để lại nhiều hệ quả trầm trọng cho đất nước và đang kìm hãm sự phát
triển của đất nước,
- so với những cái giá đất nước phải trả về đối nội và đối ngoại suốt 38 năm qua,
- rồi so mức phát triển của nước ta với các nước có liên quan,
- so một bên là tình trạng nguy hiểm hiện nay và những thách
thức lớn phía trước đang đặt ra cho đất nước và một bên là khả năng đối
phó rất hạn chế của đất nước.., vân vân…
so như thế, phải chăng có thể đi tới nhận xét:
- Trong 38 năm hòa bình đầu tiên kể từ khi đất nước độc lập
thống nhất, ĐCSVN đã vấp phải nhiều thất bại rất nghiêm trọng; đất nước
phải trả giá và hiện nay đang lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn
diện.
- Bản thân ĐCSVN ngày nay tha hóa thành đảng cai trị, qua đó đã đánh mất phẩm chất chiến đấu cách mạng của mình.
- Nhân danh thực hiện sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối,
ĐCSVN 38 năm qua đã thiết lập nên một chế độ toàn trị, nguồn gốc cơ bản
của biết bao nhiêu quyết sách sai lầm và tệ nạn quan liêu tham nhũng mà
ngày nay đất nước đang phải gánh chịu mọi hậu quả[82].
Có phải như thế không?
Nếu đúng là như vậy, ĐCSVN hôm nay chỉ còn lại là một lực lượng chính
trị lớn nhất nắm vận mệnh đất nước; lợi ích cai trị của nó và lợi ích
đất nước thường không phải là một, và thậm chí có những xung đột hoặc
đối kháng nghiêm trọng. Rất nên trao đổi thẳng thắn trong nội bộ ĐCSVN
và với nhân dân, để làm rõ thực trạng nguy hiểm này và cùng nhau khắc
phục, thay đổi.
Có phải ĐCSVN bây giờ chỉ còn lại là một lực lượng chính trị lớn nhất trong nước hay không?
Câu hỏi này quá nghiêm trọng, nhất thiết các đảng viên ĐCSVN phải tìm ra câu trả lời.
Vì lợi ích của bản thân sự tồn tại ĐCSVN đã đành, nhưng quan trọng
hơn thế là vì lợi ích của hòa giải đoàn kết dân tộc đòi hỏi nhất thiết
không để xảy ra xung đột hoặc thậm chí đổ máu giữa một bên là lực lượng
chính trị lớn nhất này (ĐCSVN) và một bên là các lực lượng chính trị
khác trong nhân dân sớm muộn đến lúc nào đó sẽ xuất hiện.
Muốn tránh cho đất nước ta đến một lúc nào đó sẽ có thể xảy ra cái
gọi là “hậu chiến tranh Iraq”, hoặc những cái gọi là “mùa xuân Ả-rập”
đang diễn ra rất đẫm máu.., thì ngay từ bây giờ phải mổ xẻ thực trạng
này, để ĐCSVN phải tự thay đổi chính mình và tranh thủ sự hậu thuẫn của
nhân dân cho cuộc đổi đời này của Đảng. Ngay từ bây giờ nhân dân cả nước
cần thấy rõ triển vọng nguy hiểm này, chủ động đòi ĐCSVN phải thay đổi.
Có không ít ý kiến không phải là thiếu căn cứ: “Để cho chế độ này sụp
đổ đi, rồi làm lại từ đầu. Sự ngột ngạt hiện nay hết chịu nổi, hà hơi
tiếp sức góp ý xây dựng cho nó kéo dài làm gì!.. Hơn nữa quyền lực ĐCSVN
là không thể thay đổi được!”[83]
Thế nhưng…: Sau 4 cuộc chiến tranh liên tiếp mà 3
thế hệ của đất nước phải gánh chịu, bây giờ Việt Nam có nên chấp nhận
một kịch bản như nêu trên không? đấy có phải là kịch bản tối ưu không?
Cũng xin đừng quên cảnh đục nước béo cò đã nhiều lần dầy vò nước ta suốt
7 thập kỷ vừa qua, chắc gì không tái diễn?. Xin trí tuệ cả nước – kể cả
trong ĐCSVN – hãy tỉnh táo cân nhắc. Thậm chí: Đây có phải là kịch bản
duy nhất như một định mệnh của đất nước hay không?.. …
Trước sau, riêng tôi chỉ lựa chọn con đường hòa giải dân tộc. Chỉ đi con đường này, còn nước còn tát.
Nếu như ĐCSVN vẫn còn tự coi mình là một đảng cách mạng, cam kết chỉ
có lý tưởng duy nhất là phục vụ đất nước, nếu ĐCSVN không muốn phản bội
truyền thống chiến đấu hy sinh vì nước của biết bao nhiêu thế hệ đi
trước của đảng mình và của dân tộc mình, thì ĐCSVN nên mổ xẻ thực trạng
hiện nay của mình để tự kết luận.
ĐCSVN hiện nay còn đủ thời giờ và các điều kiện cần thiết cho một
cuộc mổ xẻ như thế để tự thay đổi, và hoàn toàn có thể thay đổi được.
Trong lịch sử đã từng không dưới một lần ĐCSVN đặt lợi ích quốc gia lên
trên lợi ích của đảng một khi tình hình đòi phải làm như vậy. Trong hàng
ngũ đảng viên yêu nước hiện nay không thiếu trí tuệ và tâm huyết cho sự
thay đổi này. Khi còn sống, Võ Văn Kiệt là một trong nhưng tấm gương
như thế dấn thân cho thay đổi ĐCSVN trở thành đảng của dân tộc[84].
Quả thực, sựa lựa chọn đặt ra cho ĐCSVN hôm nay rất khắc nghiệt: Hoặc
là bảo tồn mình như là một lực lượng chính trị lớn nhất đang cai trị
đất nước – và như thế, đến một lúc nào đó đối kháng giữa cai trị và bị
cai trị là điều khó tránh khỏi. Hoặc là phải thay đổi tất cả để phấn đấu
trở thành lực lượng lãnh đạo mạnh nhất trong nước – với tính cách là
một đảng của dân tộc!?
Song cũng phải nói lên một sự thật khác: Cho đến nay chưa có một đảng
cộng sản đã cầm quyền nào ở các nước XHCN LXĐÂ trước đây có khả năng
thay đổi đến lột xác như thế, các đảng này chỉ có chung một số phận là
bị lịch sử gạt bỏ thô bạo hay lặng lẽ.
ĐCSVN có bề dày mấy thế hệ kháng chiến cứu nước, liệu có thể là một
ngoại lệ được không? Liệu ĐCSVN có thể đặt lợi ích quốc gia lên trên hết
để tự thay đổi mình được không? Có nên thay đổi như thế không?..
Phải tìm đường trả lời những câu hỏi này. Vì đấy là con đường đỡ
xương máu và mồ hôi nước mắt cho đất nước, đồng thời tránh cho ĐCSVN
cuối cùng sẽ đi vào lịch sử với tính cách là kẻ đối kháng lại lợi ích
dân tộc. Thực ra, đây là sự thay đổi để trở lại cái bản chất gốc, bản
chất ban đầu là chủ nghĩa yêu nước của những người cộng sản Việt Nam đã
từng làm nên Cách mạng Tháng Tám và tinh thần tiên phong hy sinh chiến
đấu suốt mấy thế hệ trong kháng chiến cứu nước. Sự thay đổi này chính là
sự giải phóng của bản thân những đảng viên ĐCSVN hôm nay khỏi sự nô
dịch của ý thức hệ ăn đong và vay mượn từ bên ngoài. Ý thức hệ này đâu
có phải là sản phẩm tinh thần của dân tộc mình và của văn minh nhân
loại[85]!
Nghe có vẻ kỳ quặc, sự thật là đã đến lúc các đảng viên ĐCSVN hôm nay
hơn bao giờ hết phải đấu tranh giải phóng chính mình, để trở thành con
người tự do! Nói cay nghiệt hơn: Đã đến lúc những đảng viên ĐCSVN hôm
nay cần vứt bỏ cái lý tưởng nhân danh ý thức hệ mà trên thực tế nó hầu
như chỉ còn là cái bình phong che đậy sự sa ngã của tha hóa và phi đạo
đức.
Nhiều cá nhân đảng viên yêu nước ở các nước XHCN LXĐÂ cũ đã thực hiện
được sự thay đổi như vậy. Nhiều đảng viên có phẩm chất và năng lực sau
này vẫn được nhân dân trao cho những trọng trách trong chế độ dân chủ ở
các quốc gia này. Vậy rất nên đưa vấn đề lựa chọn sống còn này ra cho
các đảng viên ĐCSVN thảo luận dân chủ, công khai và thẳng thắn trong nội
bộ để quyết định.
Chưa bao giờ ý chí độc lập - tự chủ, chưa bao giờ tinh thần “Không có
gì quý hơn độc lập tự do!” của đất nước bị xâm phạm, bị sa sút như ngày
nay. Sau 38 năm độc lập thống nhất, hiện nay đất nước ta đang ở thời
kỳ bên trong thì lòng dân vô cùng bức xúc; trong khi đó sự uy hiếp và
thách thức từ bên ngoài đối với đất nước vô cùng nguy hiểm. Cả nước nhất
thiết phải cùng nhau nhìn nhận lại tất cả . Phải cùng nhau nhìn nhận
lại tất cả! – xin được phép nhấn mạnh như vậy, vì đất nước này không
phải là của riêng ai, mà là của tất cả mỗi người Việt Nam chúng ta!
VIII – Thách thức và cơ hội – sự lựa chọn của nước ta
Bàn thêm về ASEAN
Các phần trình bầy trên đã nêu lên những thách thức đối với nước ta.
Tại đây xin nêu thêm một số ý kiến về thách thức đối với Việt Nam có
liên quan đến ASEAN.
ASEAN là một tập hợp do đòi hỏi của cuộc sống tự thân các
nước ASEAN, nhưng tập hợp ASEAN vẫn còn đứng xa cái đích đã tạo ra nó:
trở thành một hợp tác khu vực mang lại phát triển phồn vinh, hạnh phúc
cho các quốc gia thành viên, bảo vệ và phát huy được vị thế quốc tế phải
có của ASEAN.
Trở ngại lớn nhất cho việc thực hiện cái đích của ASEAN là
(1)sự phát triển không đồng đều và (2) một số khác biệt / mâu thuẫn giữa
các quốc gia thành viên do lịch sử (bao gồm cả những yếu tố văn hóa) và
do hoàn cảnh địa kinh tế và địa chính trị của mỗi quốc gia thành viên
tạo nên. Thực tế này là mảnh đất mầu mỡ cho mọi ý đồ can thiệp, lũng
đoạn của bên ngoài[86].
Điều may mắn là những thách thức, đòi hỏi của phát triển tự thân các
nước thành viên, cũng như đòi hỏi và sức ép đến từ bên ngoài khu vực,
đang thúc đẩy ngày càng mạnh mẽ hợp tác của tập hợp ASEAN. Những nỗ lực
nhằm hoàn tất việc xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (CEA) vào năm 2015
phản ánh sự đang trưởng thành này. CEA được xây dựng trên 3 trụ cột là
an ninh chính trị, kinh tế, và văn hóa xã hội; đấy sẽ là một dạng tập
hợp tương tự như Liên minh Châu Âu (EU), song ở mức thấp hơn và có những
khác biệt nhất định.
Thách thức lớn nhất đến từ ASEAN đặt ra cho Việt Nam là chính Việt
Nam: Làm gì? và làm thế nào? để thực hiện được vai trò và nghĩa vụ của
chính nước ta mà sự thành công của ASEAN đòi hỏi, mong đợi.
Muốn hay không muốn, nói ra hay không nói ra, vụ lợi hay không vụ
lợi, có sự mong đợi từ ASEAN về một lá chắn Việt Nam đối với áp lực
Trung Quốc. Cũng như vậy, Việt Nam cần một hẫu thuẫn trực tiếp từ ASEAN
chống lưng cho mình trong đối phó với sóng bão Trung Quốc.
Thực trạng hiện nay là:
(1) sự mong đợi từ ASEAN nước ta đáp ứng chưa tốt – trước hết
vì sự đóng góp của Việt Nam vào phát triển và hợp tác của ASEAN còn rất
khiêm tốn, Việt Nam vẫn đang thiếu một đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ và dấn thân, Việt Nam chưa có một nền tảng đối nội cho một đường lối
đối ngoại mà vị thế của Việt Nam ngày nay đòi hỏi; (theo tôi, không
thể đổ lỗi tình trạng này cho sức mạnh kinh tế còn khiêm tốn của mình);
(2) sự hậu thuẫn chống lưng cho Việt Nam đang có những lỗ
thủng đáng lo ngại – chủ yếu do ảnh hưởng và sự can thiệp của quyền lực
mềm Trung Quốc (trước hết vào Campuchia, Lào, Thái Lan…, chính sách bẻ
từng que đũa của bó đũa…) và phần nào do bản thân sự phát triển của
chính các nước thành viên ASEAN còn những hạn chế nhất định[87].
Nước ta đang đứng trước một thực tế rất nhạy cảm: Hoặc là Việt Nam
thực hiện được vai trò và nghĩa vụ mà ASEAN mong đợi; trong trường hợp
này ASEAN mạnh lên và Việt Nam cũng nhận được từ ASEAN và cộng đồng quốc
tế điều mình mong đợi. Hoặc là trường hợp Việt Nam bất lực, thậm chí
giả sử Việt Nam đi ngược lại mong đợi của ASEAN (ví dụ: giả thiết rằng
Việt Nam và Trung Quốc “đi đêm” với nhau trong đàm phán song phương Việt
– Trung…), Việt Nam sẽ rơi vào một thế bị cô lập nguy hiểm - không phải
chỉ trong phạm vi ASEAN, mà còn trong phạm vi quốc tế[88].
Xin hình dung trước mắt ta là tấm bản đồ: Phía Bắc là Trung Quốc,
phía Đông và Nam là sự uy hiếp của Trung Quốc trên Biển Đông, phía Tây
là các “điểm ASEAN” đã bị Trung Quốc chọc thủng… Không thể nhắm mắt
trước một tấm bản đồ như vậy.
Hễ là người Việt Nam thì cần nhìn thẳng vào tấm bản đồ này và lựa chọn quyết định phải lựa chọn.
Trên thế giới ngày nay không còn liên minh ý thức hệ (ví dụ như sự ra
đời và tồn tại “phe” XHCN trước đây), song lại có đòi hỏi bức thiết về
liên minh của lợi ích cùng chiều, liên minh của các giá trị và của sự
phát triển,. Điều này có nghĩa Việt Nam chỉ có thể có được một ASEAN như
mình mong đợi, nếu Việt Nam tự phát triển và tự dấn thân mạnh mẽ.
Tự phát triển và tự dấn thân như vậy, thực sự là thách thức khó nhất,
lớn nhất đặt ra cho Việt Nam hiện nay. Sẽ là vô ích và nguy hiểm, nếu
ta chỉ một chiều trách cứ bạn bè thế nọ, thế kia… Đơn giản vì không thể
có chuyện “mủi lòng thương cảm”, “sự thông cảm…” từ phía bạn bè khi bàn
những vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia.
Thách thức do sự hội tụ của mọi thách thức
(1) Sự tha hóa và bất cập của hệ thống chính trị trước đòi hỏi nóng
bỏng phải chuyển đất nước ta bước sang một giai đoạn phát triển mới,
(2) con rồng Trung Quốc đã bắt đầu nhe nanh vuốt của nó,
(3) trục xoay của Mỹ hướng về CA-TBD,
(4) sự tự khẳng định ngày càng tăng của các cường quốc khu vực hướng vào khu vực CA-TBD,
(5) kinh tế thế giới đi vào một thời kỳ phát triển mới đang thay đổi
sâu sắc sự vận hành hiện nay của quá trình toàn cầu hóa – một phần việc
cụ thể có liên quan của quá trình này là Việt Nam thực hiện các bước đi
tham gia vào TPP và phải cùng với các thành viên ASEAN hoàn thành xây
dựng cộng đồng CEA;
đấy là 5 thách thức đang đặt ra trực tiếp cho nước ta hiện nay và trong những thập kỷ tới.
(Còn thách thức thứ 6 là nguy cơ ASEAN bị phân hóa, song
nguy cơ này còn tùy thuộc rất nhiều vào sự hiệp đồng giữa các thành viên
ASEAN, cũng có nghĩa là tùy thuộc rất nhiều vào vai trò dấn thân của
Việt Nam trong cộng đồng ASEAN; vì thế không muốn liệt kê vào đây).
Điểm nổi bật là cả 5 thách thức nói trên cũng hội tụ vào
thời điểm hiện tại, mọi mối quan hệ qua lại của chúng cùng tác động đồng
thời vào nước ta, tạo ảnh hưởng chi phối sự phát triển của nước ta
trong những thập kỷ trước mắt.
Sự hội tụ này có nghĩa:
a. làm gia tăng tính triệt để của các thách thức,
b. mọi giải pháp cho bất kỳ thách thức nào phải đồng bộ và liên quan hữu cơ đến những giải pháp cho các thách thức còn lại,
c. không làm chủ được thách thức này hàm nghĩa sẽ thất bại hay khó tránh thất bại trước những thách thức khác,
d. các giải pháp cho từng thách thức có thể hỗ trợ lẫn nhau, nhất
thiết phải được thiết kế theo cách tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau, các giải
pháp đòi hỏi phải có tầm nhìn, trí tuệ, ý chí và sự đồng thuận phù hợp
trong toàn dân tộc;
e. trong tất cả mối quan hệ qua lại hữu cơ giữa các thách thức,
làm chủ và giải quyết thành công thách thức số 1 luôn luôn là khởi sự và
là chìa khóa cho giải quyết thành công 4 thách thức còn lại.
Để giải quyết cả 5 thách thức (1 – 5) với những đặc tính
nêu trên (a – e), Việt Nam đứng trước đòi hỏi sống còn phải tiến hành
thành công một cuộc cải cách triệt để hệ thống chính trị để trở thành
một Việt Nam có bản lĩnh. Đây là chìa khóa giải quyết mọi vấn đề, mở ra
cho đất nước một giai đoạn phát triển mới bắt buộc phải vươn tới.
Sự thật là, dù nhìn từ bất kể phương diện nào – đối nội hoặc
đối ngoại, kinh tế hoặc chính trị hay quân sự, hoặc trên các phương diện
văn hóa, xã hội.., - tình hình bắt buộc nước ta phải tiến hành một cuộc
cải cách chính trị vỹ đại, để trở thành một quốc gia có bản lĩnh đứng
vững vàng trong khu vực ngày càng trở nên nóng bỏng này…
Cuộc cải cách chính trị này phải nhằm vào cái đích:
- Phát huy được sức mạnh dân tộc, bắt đầu từ xây dựng một thể
chế chính trị dân chủ pháp quyền, thực hiện quyền con người, giải phóng
tự do cá nhân, từ đó làm nên sức mạnh vật chất và tinh thần của đất
nước.
- Bằng đường lối ngoại giao dấn thân tạo ra khả năng lan tỏa
ảnh hưởng của Việt Nam cho một sự tập hợp lực lượng trên thế giới hậu
thuẫn sư nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Không thể nói khác, đấy phải là cuộc cải cách dưới ngọn cờ dân tộc và
dân chủ với tầm trí tuệ và ý chí của văn minh nhân loại ngày nay.
Như vậy, hy vọng đã trình bầy rõ điểm xuất phát là thực trạng của đất
nước hôm nay, cũng như cái đích phải đi tới của cuộc cải cách chính trị
phía trước.
Nghĩa là từng người Việt Nam phải cùng nhau thay đổi, cùng
nhau trưởng thành lên ngang tầm đòi hỏi của đất nước, chứ không phải chỉ
có riêng những người đảng viên ĐCSVN.
Câu chuyện còn lại là từ thực trạng đất nước hôm nay lựa chọn con đường nào? và với lộ trình nào? để đi tới cái đích phải đến nói trên.
Câu chuyện còn lại là từ thực trạng đất nước hôm nay lựa chọn con đường nào? và với lộ trình nào? để đi tới cái đích phải đến nói trên.
Con đường lý tưởng của cải cách là con đường của công khai minh bạch,
của thông tin, học hỏi, dân chủ, là con đường của thiện chí xây dựng,
của phát triển, là con đường của đồng thuận xã hội ở mức cao nhất, là
con đường cùng nhau thiết kế, cùng nhau khai phá, tiến hành.., là con
đường được dẫn dắt bởi trí tuệ và các giá trị thuộc về các quyền tự do
dân chủ của nhân dân… Quyết khép lại quá khứ, để làm bằng được như vậy.
Quyết không phản bội bất kỳ hy sinh nào đã ngã xuống vì nước, không bỏ
qua bất kỳ mất mát nào đất nước đã phải trả giá để có được hôm nay. Phải
chắt chiu từng đồng tiền bát gạo đã dành dụm được, để vắt óc xây đắp
lên những thành quả mới của đất nước trên con đường cải cách… Đó chính
là con đường vận động dân chủ và trí tuệ từ dưới lên, vừa đặt ra đòi hỏi
mạnh mẽ bất khả kháng của nhân dân và đồng thời vừa tạo thuận lợi cho
việc tiến hành cải cách thể chế chính trị từ trên xuống trong hòa bình,
hiểu biết, hòa giải, đồng thuận và đoàn kết dân tộc.
So với các nước LXĐÂ cũ, so với Myanmar hiện nay, có thể nói nước ta
ngày nay hội đủ mọi điều kiện trong, ngoài tạo ra một khung khổ mang
tính chất cam kết của đồng thuận xã hội, được nuôi dưỡng bằng ý chí của
dân tộc, để tiến hành một cuộc cải cách bằng trí tuệ và hòa giải, không
hồi tố, không đổ máu, không tiếng súng, đảm bảo kinh tế tiếp tục phát
triển trong cải cách. Tất cả với mục đích duy nhất là vì Tổ quốc Việt
Nam yêu quý của chúng ta, vì cuộc sống đáng sống của người dân Việt ta –
đúng với tinh thần: dân chủ, độc lập, tự do, hạnh phúc.
Cải cách dứt khoát không chấp nhận con đường bạo lực, và không thể thành công bằng con đường này.
Có 2 luồng ý kiến chính:
- Trong tình hình đối nội, đối ngoại đều nóng bỏng đối với
nước ta như hiện nay, cải cách sao tránh khỏi dẫn đến một Ai-cập ở Việt
Nam. Làm như thế để mà chết à?
- Trong tình hình nước sôi lửa bỏng như hiện nay, cải cách là lối ra, là con đường sống.
Xin cứ nêu lên như thế để cùng bàn luận.
Người viết bài này xin lạm bàn:
Qua việc bàn luận sửa đổi Hiến pháp 1992, tình hình cho thấy luồng ý
kiến thứ nhất rất rôm rả trong tranh luận bằng “độc thoại” trên nhiều
báo chí chính thống (lề phải) và trong không ít phát ngôn quan trọng.
Luồng ý kiến này nhấn mạnh: Ưu tiên số một là giữ ổn định chính trị,
tình trạng yếu kém khó khăn của đất nước có thể được cứu chữa bằng đẩy
mạnh tự phê bình và phê bình (tham khảo các ý kiến của Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng tại các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6; tham khảo các ý
kiến của Hoàng Chí Bảo trong tranh luận kiểu độc thoại trên báo QĐND
25-08-2013 với Lê Hiếu Đằng). Thiết nghĩ, cách tiếp cận này là lựa chọn
sự nhắm mắt để dễ bề chấp nhận cái chết lâm sàng, trước khi đi tới cái
chết hẳn dù dưới dạng nào.
Luồng ý kiến thứ hai nêu ra nhiều kiến nghị cụ thể về sửa đổi Hiến
pháp. Tiếc rằng chỉ được đăng tải trên “lề trái”. Rất nên phổ biến công
khai các ý kiến của luồng này trên mọi phương tiện thông tin đại chúng
của lề phải, để công luận cả nước cùng thảo luận. Tại đây chỉ muốn đặt
câu hỏi: Nếu người cầm quyền tin rằng mình có chính nghĩa thì có gì phải
tránh né thảo luận công khai minh bạch trong cả nước để tìm ra chân lý?
“Đi với Trung Quốc giữ được chế độ nhưng mất nước? Đi với Mỹ giữ được nước nhưng mất chế độ và mất Đảng?…”
Đấy là suy nghĩ nói lên thành lời của không ít vị lão thành trăn trở về vận mệnh đất nước hiện nay.
Người viết bài này xin có lời bình: “Đi” như thế, e rằng
trước sau rồi sẽ mất tất cả, để rồi sẽ phải làm lại từ đầu tất cả.
Bởi vì đi như thế với ai đi nữa, thân phận của đất nước ta vẫn là
thân phận của nước bên thứ ba (the third player, the third party) như đã
nói tới ở các phần trên. Gần 7 thập kỷ vừa qua nước ta đã không dưới
một lần rơi vào cái thân phận nước bên thứ ba.., không dưới một lần bị
thí, bị phản bội, bị cướp, bị móc túi.., và cuối cùng nước ta đang có
chỗ đứng đầy âu lo như hôm nay trên bàn cờ thế giới.
Lịch sử ngoại giao nước ta 7 thập kỷ vừa qua còn cho thấy, đi với bên
nào thì trước sau vẫn rơi vào nguy cơ thường trực: Đi với một bên,
chống một bên, với kết cục không bao giờ tốt đẹp.
Trong nước và trên thế giới có nhiều nhận xét xác đáng: Việt Nam đang
thực hiện đường lối ngoại giao “leo dây”. Qua đó, cái yên thân Việt Nam
giành được chỉ là cái yên thân luôn luôn chung chiêng, chao đảo trên
dây. Cái ý chí không gì quý hơn độc lập tự do giành được qua sự yên thân
này là cái tự do có khung trời hẹp bằng sợi dây ta đang đi trên nó. Cái
dây ấy có thể bị giựt, bị đứt bất kỳ lúc nào. Khung trời tự do này cắt
nghĩa sự lệ thuộc và phụ thuộc nguy hiểm đất nước đang mang trên mình
như đã trình bầy trong các phần trên của bài này.
Còn phải tính toán thêm một yếu tố mới: Trong mọi bước đi cố phục hồi
lại vị thế quốc tế đã từng có thời Xô-viết và trước nữa, Nga đang tiến
hành nhiều hoạt động gia tăng sự có mặt của mình ở phía Đông. Thực tế
này làm cho yếu tố Nga ngày càng đặm nét hơn tại khu vực biển Hoa Đông
(liên quan đến đảo Kurin, đến Nhật) và trên biển Đông (bao gồm cả những
nỗ lực muốn trở lại Cam Ranh). (Hiện nay trong vấn đề Syrie cũng vậy).
Hiện tượng mới này có thể đặt Việt Nam trước 2 tình huống:
(1)có thể khai thác yếu tố Nga để giảm bớt sự căng thẳng cho ta trong việc giữ cân bằng giữa hai đối trọng Mỹ - Trung? và
(2) phải chăng việc ta thực hiện cân bằng giữa 2 đối trọng Mỹ - Trung
sẽ có thêm những khó khăn mới, nếu Nga cùng đi với Trung Quốc như đang
làm trong vấn đề Syrie?
(Chú ý: Kịch bản Nga đi với Mỹ trong chiến lược “trục xoay” của Mỹ hoàn toàn loại trừ trong bối cảnh quốc tế hiện nay).
Suy cho cùng, cả 2 tình huống (1, 2) này chẳng lợi lộc gì cho nước
ta. Hơn nữa, nước ta hầu như không thể có ảnh hưởng gì trong trò chơi
tay ba này, kể cả trường hợp ta lựa chọn đối sách đi với một bên nào đó
(dù là Nga). Cũng không thể loại trừ trò chơi tay ba này mang đến cho
nước ta những vấn đề nhạy cảm và khó khăn mới. “Đi” với ai, trong trò
chơi này, thân phận nước bên thứ ba đối với nước ta vẫn là một ác mộng.
Có thể tình huống 1 ở chừng mực nhất định có lợi cho Việt Nam – ví dụ
như hiện nay Nga đang là người bán cho Việt Nam nhiều vũ khí quan
trọng, quan hệ với Việt Nam có một bề dầy lịch sử được nhân dân cả hai
bên trân trọng, vân vân… Song hiển nhiên những mối quan hệ Việt - Nga có
quá khứ tốt đẹp này làm sao có thể so sánh được với tầm quan trọng của
việc Nga đang muốn phục hồi vị thế cường quốc trước đây của mình. Nếu
hình thành một trục Nga – Trung trong những vấn đề ở Bắc Phi (hiện nay
đang manh nha trong vấn đề Syrie), liệu việc Việt Nam đi với Nga như thế
sẽ có những hệ lụy gì? Hiện nay Nga đã đồng ý bán những vũ khí tối tân
cho Trung Quốc như tên lửa S400, máy bay chiến đấu SU – 35… Vũ khí Nga
bán cho Việt Nam kém hiện đại hơn (vì ta ít tiền hay không cần đến?)
Trong tình hình có một kịch bản Syrie ở Biển Đông (Nga đi với Trung
Quốc), giả thử Việt Nam lựa chọn đi với một bên kép là Nga - Trung Quốc
trong trò chơi tay ba này, hầu như chắc chắn Việt Nam đứng trước một
hiểm họa mới khôn lường (là tiền đồn, là khu đệm cho liên kết Nga –
Trung trong trò chơi tay ba đầy nguy hiểm này? V… v…). Chẳng lẽ bài học
nóng hổi “7 cuộc chiến tranh trong 1 cuộc chiến tranh” hôm qua không nói
lên điều gì với nước ta hôm nay?
Có một điều có thể thấy trước: Mối quan hệ giữa các nước lớn càng rối
rắm và nhạy cảm, chắc chắn Nga sẽ càng bận bịu hơn nữa chăm lo đến vị
thế quốc tế của mình. Và như thế, quan hệ Nga – Việt sẽ chỉ còn nằm lại
trong danh mục phụ lục của chính sách đối ngoại Nga mà thôi.
Kịch bản Việt Nam đi với Mỹ trong vấn đề Biển Đông
nói riêng và trong vấn đề “chiến lược trục xoay” nói chung – dù là có
hay không có sự xuất hiện của Nga trong khu vực ĐNA này – cũng không hứa
hẹn điều gì tốt đẹp. Vì “đi” như thế, ta sẽ lĩnh đủ đạn từ phía Trung
Quốc, lại vẫn là rơi vào cái bẫy đi với một bên chống một bên. Nếu có cả
Nga tham gia vào trò chơi này, thì màn kịch sẽ càng rối rắm và không
bớt mùi máu trộn thuốc súng dành cho Việt Nam.
Kịch bản đi với Trung Quốc?
Đi với Trung Quốc như đã đi gần 70 năm qua? Đi với Trung Quốc như đã
và đang đi từ Thành Đô cho đến hôm nay? “Đi” như thế chắc là đủ lắm rồi!
Trở thành tiền đồn cho Trung Quốc thì nhân dân ta chắc chắn sẽ bác bỏ
quyết liệt, và thế giới cũng sẽ tảy chay. Bây giờ rất cần mối quan hệ
láng giềng bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền, tốt đẹp, tự trọng,
bền vững đời đời với Trung Quốc, chứ không phải sự mầu mè 4 tốt và 16
chữ...
Muốn được như thế, phải chăng cái dĩ bất biến của Việt Nam là: Nhất
thiết phải có bản lĩnh không trở thành nước bên thứ ba trong bất kỳ loại
games nào của các ông lớn?
Kịch bản là nước trung lập đứng ngoài cuộc chơi tay ba của Mỹ, Trung,
Nga, hoặc đứng ngoài cuộc chơi tay đôi (trong đó có một bên kép Nga -
Trung) không đặt ra cho Việt Nam. Đơn giản vì sẽ chẳng ai chịu để nước
ta thoát khỏi thân phận nước bên thứ ba. Nghĩa là ta có quỳ gối xin
được trung lập, chắc thiên hạ cũng không ban cho!
Tóm lại, “đi” như nói trên với ai cũng không được!
Trung lập cũng không được!
Nghĩa là không còn ngả đường nào khác ngoài con đường nước ta đã lựa
chọn nhưng chưa làm sao dấn thân bước vào được, đó là: Chính ta cũng
phải trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của các đối tác.
Đơn giản là làm gì có chuyện bắt tay nhau hay hân hoan vỗ tay bằng một
bàn tay!
Xin nói huỵch toẹt ra thế này:
Hiện nay có lẽ Mỹ cũng chưa tin ta, mặc dù ta có vị trí và vị thế
chiến lược quan trọng lắm. Thế thì làm sao ta là đối tác hợp tác toàn
diện được?.. Vậy ta làm sao thực hiện được vỗ tay hay bắt tay nhau bằng
hai bàn tay được – nghĩa là trong đó phải có một bàn tay là của phía
Việt Nam?
Hiện nay Trung Quốc cũng ngờ vực ta. Trung Quốc thừa biết 4 tốt và 16
chữ là của rởm. Nhưng nội bộ Trung Quốc đặt câu hỏi: Việt Nam chập
chờn? Bắt cá hai tay? Lật lọng? Việt Nam có bản lĩnh, hay khiếp nhược
hay vật vờ?.. Báo chí Trung Quốc không dưới một lần nói “Việt Nam ăn
cháo đá bát!”… Nghĩa là Trung Quốc không tin ta, coi thường ta, cũng
chẳng sợ ta, cũng chẳng nể nang gì ta, có cơ hội thì còn làm cho ta ê
chề nữa…
Vậy có cách gì làm cho cả Mỹ và Trung Quốc phải thay đổi cách suy
nghĩ của họ về ta? Phải làm thế nào cho họ hiểu: Có một Việt Nam khác –
một Việt Nam tự nó, cho nó, vì nó và vì lẽ phải, vì những giá trị toàn
cầu… Đã đến lúc họ phải ứng xử đúng mực với một Việt Nam bản lĩnh như
thế!..
Chúng ta cần nhìn thẳng vào sự thật:
- Việt nam có một vị trí chiến lược địa chính trị và địa kinh tế rất đặc biệt tại Đông Nam Á.
- Nhưng trong con mắt của hầu hết những diễn viên chính tại
sân khấu CA - TBD, Việt Nam mới chỉ được coi là một vị thế công cụ quan
trọng.
- Bây giờ Việt Nam nhất thiết phải chủ đông chiếm được cho
mình vị thế đối tác quan trọng và được tôn trọng. Không có sự lựa chọn
nào khác.
Vâng, để chiếm được chỗ đứng là đối tác quan trọng trong chính sách
đối ngoại của họ, nhất thiết ta phải là một Việt Nam của phẩm giá – được
đo bằng những giá trị của dân tộc mình, những giá trị toàn cầu và được
thể hiện thành hành động; mọi xảo ngôn chẳng giúp được gì[89].
Một Việt Nam biết tự trọng và muốn tạo ra lòng tin chiến lược (“diễn
văn Shengri La”), nước ta nhất thiết phải là như thế, phải làm được như
thế.
Cùng nhau vỗ tay hân hoan bạn bè, hay là bắt tay nhau hợp tác, đều
phải có đủ hai bàn tay như thế, trong đó Việt Nam phải là một bàn tay
như thế.
Ta còn thua kém các đối tác của ta về nhiều phương diện, nhưng vì thế
địa kinh tế và địa chính trị của nước ta cho phép ta tham gia và có
những đóng góp vào các mối quan hệ chung song phương / đa phương trong
khu vực và toàn cầu đủ quan trọng, để ta cũng được thừa nhận là đối tác
chiến lược, đối tác toàn diện.
Nhưng sự thật là hiện nay nước ta đang thiếu trầm trọng bản lĩnh,
phẩm chất và trí tuệ để dấn thân trở thành một đối tác như thế, chứ
không phải vì nước ta nghèo và lạc hậu. Nói nghiêm khắc, nước ta vẫn
chưa ra khỏi cái tâm lý đối phó, chập chờn, ỷ lại, cầu xin, tâm lý mong
được giúp, được chi viện![90]
Như vậy hiển nhiên, cái dĩ bất biến là: Phải trở thành một quốc gia
có bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ - từ đó sẽ có thực lực để dứt khoát
không cam chịu thân phận nước bên thứ ba. Nhưng làm sao Việt Nam trở
thành một quốc gia như thế với chế độ chính trị toàn trị hiện hành?[91]
Xin mỗi người Việt Nam, trước hết là các đảng viên ĐCSVN, hãy trả lời
câu hỏi này.
Một khía cạnh khác: Ngày nay, trên ngôn từ, Việt Nam đã có quan hệ
đối tác chiến lược, quan hệ đối tác toàn diện với tất cả các diễn viên
chính trên sân khấu thế giới. Nhưng phải nói ngay, quan hệ thực chất của
nước ta với tất cả những đối tác quan trọng này, kể cả với Trung Quốc
có “16 chữ và 4 tốt”.., nước ta đều ở vị trí rất thấp trong chính sách
đối ngoại của họ, đơn giản vì:
(1) về mọi phương diện thế và lực của nước ta đều yếu,
(2) đường lối đối ngoại chập chờn của ta vì phải đi dây, nên khiến
các đối tác quan trọng này của ta cũng đáp lại chập chờn theo (vì không
có chuyện “free lunch” ở đây),
(3) đi dây như thế không thể dấn thân được; điều này có nghĩa mãi
mãi cam chịu giữ vị trí thấp trong mọi vấn đề, trong mọi cuộc chơi của
các đối tác / đối thủ và của cả thế giới, chẳng bao giờ có thể bình
đẳng.
Một đường lối ngoại giao phải gánh chịu 3 nhược điểm lớn như thế,
chung cuộc làm suy yếu đất nước, đặt đất nước trước nhiều hiểm họa.
Đến đây có thể kết luận: Bằng mọi giá, nước ta phải là chính mình, để
thiết lập được các mối quan hệ đối ngoại mà sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước đòi hỏi. Đấy là: Bằng ngọn cờ dân tộc và dân chủ phát huy
sức mạnh dân tộc, đi với cả thế giới.
Việt Nam nhất thiết phải đứng trên đôi chân của mình, quyết định
những bước đi của mình, bởi vì lợi ích của mình đòi hỏi như vậy, bởi vì
hòa bình và xu thế tiến bộ trên thế giới muốn có một Việt Nam như vậy.
Đòi hỏi không thể thoái thác này xác quyết: Việt Nam phải trở thành một
quốc gia của dân chủ, độc lập, tự do, hạnh phúc và hòa bình.
Xin hỏi: Có con đường nào đổi đời đất nước, đổi đời
mỗi công dân để xây dựng nên một Việt Nam như thế, nếu không phải là con
đường cải cách thể chế chính trị để tạo điều kiện thay đổi tất cả? Xin
mỗi người Việt chúng ta – dù là ai, chính kiến nào, không phân biệt tôn
giáo, sắc tộc, đảng viên ĐCSVN hay không phải đảng viên ĐCSVN, sống ở
trong nước hay nước ngoài – với tất cả tình thần trách nhiệm “Nước Việt
Nam là của người Việt Nam!”[92], với tất cả tinh thần đoàn kết hòa hợp
và hòa giải dân tộc, hãy suy nghĩ về điều này.
Còn một sự thật nữa: Nước ta có một vị thế rất quan trọng trong chính
sách đối ngoại của tất cả các đối tác quan trọng, lớn cũng như nhỏ, các
nước thành viên ASEAN…, nhìn theo phương diện tiêu cực, cũng như theo
phương diện tích cực.
Nhìn theo phương diện tiêu cực: Nếu thống soái được Việt Nam, sẽ làm
được nhiều chuyện. Ví dụ, nếu biến được Việt Nam thành một bàn đạp cho
Trung Quốc tiến xuống phía Nam và ra Biển Đông!..
Nêu lên như vậy là để bàn cho hết nhẽ. Cứ cho là Trung Quốc rất muốn,
nhưng có thể phương án này trong thực tế sẽ không khả thi hay rất khó
khả thi. Vì hầu như chắc chắn nhân dân Việt Nam sẽ từ chối đến cùng một
phương án như vậy, và chắc cũng sẽ nhân dịp này quét sạch luôn mọi ảo
tưởng, phản bội, hay đầu hàng ăn theo phương án này.
Xin nhắc lại, Trung Quốc trước đây đã đôi ba lần đề nghị với Mỹ
phương án chia đôi Thái Bình Dương. Cách đây ít lâu bộ trưởng quốc phòng
Trung Quốc Thường Vạn Toàn tuyên bố Thái Bình Dương đủ chỗ cho cả Trung
Quốc và Mỹ… Bây giờ xin lưu ý: Việt Nam có một vị trí chiến lược khá
quan trọng, nên từ sau chiến tranh thế giới II đến hôm nay không dưới
một lần người ta đã bàn với nhau các phương án “chia đôi” như thế dành
cho Việt Nam.
Trong tiếp đón Chủ tịch Trương Tấn Sang vừa qua, phía Mỹ tuy cởi mở,
tiến xa hơn so với ta một chút lên phía trước, song vẫn bầy tỏ một thái
độ “wait and see!” khá rõ rệt với Việt Nam, (ví dụ: không thể tách việc
bán vũ khí sát thương cho Việt Nam với vấn đề thực hiện dân chủ và quyền
con người ở Việt Nam, nội dung “đối tác toàn diện” hàm ý có những điều
chờ đợi nhất định…). Mỹ không thể làm khác, mặc dù ai cũng biết phía Mỹ
rất muốn triển khai mạnh mẽ chiến lược “trục xoay”. Thái độ “wait and
see!” như vậy phải chăng cho thấy: Mỹ không mơ hồ, cũng không sốt ruột
trước tình trạng “chập chờn” và “ngoại giao leo dây” khó tránh hiện nay
của Việt Nam!?
Chưa nói đến việc là siêu cường, ắt Mỹ còn nghĩ đến nhiều tính toán khác, nhiều phương án khác, cho những tình huống khác.[93].
Trên phương diện tích cực: Việt Nam sẽ rất quan trọng đối với nhiều
nước nếu là một thành trì bất khả xâm phạm của hòa bình trong khu vực,
là cầu nối rất cần thiết giữa các khu vực và cho những players trong
nhiều vấn đề nan giải khác…
Sự thật là trên thế giới ngày nay rất nhiều quốc gia muốn có một Việt
Nam có đủ khả năng giữ vai trò tích cực nêu trên. Trong tất cả các đối
tác chiến lược, có lẽ duy nhất chỉ có Trung Quốc muốn có một Việt Nam
suy yếu. Việt Nam thực sự đang có tiềm năng giành lấy một vị thế quốc tế
xứng đáng mà rất nhiều nước trên thế giới mong muốn cho Việt Nam! Cơ
hội này thực sự chưa từng có cho Việt Nam kể từ khi lập quốc, do xu thế
phát triển của thế giới hôm nay tạo ra.
Đã thế, bàn cờ thế giới thay đổi như chong chóng. Vì lợi ích nào đó
các cường quốc hôm nay đi với nhau; vì lợi ích nào đó ngày mai có thể
chống lại nhau. Việt Nam không thể dựa dẫm hay ăn theo nói leo được.
Nếu không đủ trí tuệ và bản lĩnh để luôn luôn giữ được mình là chính
mình và đi cùng với cả thế giới tiến bộ, để có khả năng bảo vệ tốt nhất
lợi ích quốc gia của mình và biết dấn thân ủng hộ lợi ích của cộng
đồng, xin hỏi làm sao Việt Nam có thể có những quyết định đúng đắn?
Một khi phải có một đường lối đối ngoại như thế, sẽ có nhiều điều vô
cùng nhạy cảm và vô cùng gian khổ, sẽ đụng chạm với nhiều nơi và sẽ chịu
sức ép mới từ nhiều nơi… Thử hỏi, nếu không có hậu thuẫn của một nền
nội trị vững mạnh, làm sao dám có một đường lối đối ngoại như thế? làm
sao dám thực hiện? Vấn đề Biển Đông của đất nước đang là một vấn đề như
thế. Vấn đề quan hệ Việt – Trung, quan hệ Việt – Mỹ trong bối cảnh chính
trị mới của khu vực và trên thế giới đang là những vấn đề vô cùng nhạy
cảm và gian khổ như thế… (Xin nói một sự thật trong quá khứ: Trong những
thập kỷ trước đây, ngoại giao Việt Nam không hiếm khi phải chiến đấu
trên 2 mặt trận: mặt trận đối ngoại, và phia sau lưng là mặt trận đối
nội!)
Một lần nữa lại càng rõ: Thách thức lớn nhất khiến Việt Nam có thể
tuột mất cơ hội lớn cũng như dễ dàng rơi vào các bẫy mới lại chính là
yếu kém của Việt Nam. Mà trong cuộc sống không có một yếu kém nào được
buông tha! Một lần nữa lại càng rõ, cuộc cải cách thể chế chính trị phía
trước của đất nước là bắt buộc. Cải cách chỉ được phép phải thành công,
điều này cũng là bắt buộc, để đất nước có một bản lĩnh mới, một năng
lực mới. Đấy cũng là tiền đề hàng đầu để giành thắng lợi.
Có lần, một người bạn muốn ở tôi lời khuyên, nếu được gặp lãnh đạo Việt Nam, ông ta nên nói gì?
Đáp: Lãnh đạo Việt Nam cần biết: (1)Vấn đề nóng bỏng nhất Việt Nam
phải giải quyết ngay là cải cách thể chế chính trị. (2) Sự bê bết lớn
nhất của Việt Nam hiện nay là bất lực trong cải cách thể chế chính trị.
(3) Chỗ mạnh nhất của Việt Nam là quyết tâm thực hiện bằng được cải cách
thể chế chính trị.
Cái bóng không làm khác được cái hình
Một số bạn lão thành khác chia sẻ với tôi: Trung Quốc không
cải cách thì Việt Nam đừng có hòng! Họ cải thì mình mới cải được!
Thật ra không ít người trong giới quan sát nước ngoài cũng nghĩ như vậy, và điều này có những lý do xác đáng nhất định.
Có quá nhiều dẫn chứng lấy ra từ cuộc sống lập luận cho cách nghĩ nêu
trên. Tôi không phản bác được, nhưng cũng không chấp nhận. Tôi tìm cách
đặt vấn đề theo cách khác: Giả định, vì lợi ích quốc gia và lợi ích dân
tộc, vì lựa chọn con đường dấn thân đi với cả thế giới, Việt nam quyết
tiến hành cải cách thể chế chính trị của mình thì sao? Trung Quốc sẽ có
thể làm gì?
Sẽ dùng quyền lực mềm can thiệp sâu vào nội bộ nước ta?
Tiếp tay cho mọi nỗ lực bóp chết từ trong trứng cải cách của ta? Lũng
đoạn kinh tế, chính trị? O ép hay can thiệp bằng quân sự - công khai
hoặc trá hình? Chia rẽ? Ly gián? Gây bạo loạn, phá hoại? Xui khiến một
lực lượng nào đó gây hấn thọc vào sườn ta? Trung Quốc trực tiếp can
thiệp bằng chiến tranh? Vân vân…
Tất cả những giả thiết như vậy đều có thể[94].
Xin nhắc lại: Bỗng dưng ngạo mạn lấy cớ dậy cho Việt Nam bài học,
giữa lúc Việt Nam không hề đụng đến một sợi tóc của Trung Quốc, để tiến
hành cuộc chiến tranh 17-02-1979, kéo dài đến tận 1989.., thử hỏi còn
việc gì khác Trung Quốc không dám làm khi cần? Nghĩa là không đánh ta,
hay muốn đánh ta, Trung Quốc đâu cần đợi đến lúc Việt Nam tiến hành cải
cách!
Hoàn toàn có thể suy luận: Trung Quốc chắc chắn không thích sau
Myanmar bây giờ lại có thêm một Việt Nam dân chủ cạnh nách mình. Hiển
nhiên Việt Nam không quyết định được “khẩu vị” và sự lựa chọn như vậy
của Trung Quốc.
Song chẳng lẽ vì Trung Quốc không thích, nên nước ta không dám làm
cái việc nước ta phải làm? Trung Quốc rất muốn duy trì một nước Việt Nam
èo uột và lệ thuộc như hiện nay, chẳng lẽ chỉ vì trung thành với 16 chữ
và 4 tốt nên nước ta phải chiều lòng họ? Thực tế từ hội nghị Thành Đô
đến nay nước ta đã làm quá mức, quá mức rất nhiều những gì có thể, chỉ
để mong xây dựng được quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Thế nhưng Trung
Quốc không để nước ta yên. Cuộc sống đang cho thấy: phía ta càng nhân
nhượng, phía Trung Quốc càng lấn tới.
Bây giờ Trung Quốc ngang nhiên đòi đường lưỡi bò, leo thang tiếp đòi
phải thừa nhận cái gọi là chủ quyền thuộc Trung Quốc trên Biển Đông
trước đã, rồi mới tính đến chuyện cùng hợp tác khai thác – với nghĩa chỉ
hợp tác những vùng trên Biển Đông Trung Quốc có yêu sách nhưng chưa
chiếm được, chứ đừng hòng cùng hợp tác khai thác những vùng Trung Quốc
đã phi pháp chiếm giữ như Hoàng Sa, một số nơi ở Trường Sa…[95]
Tất cả chỉ cho thấy, việc của nước ta, nước ta phải lo, không thể chiều lòng hay sợ mất lòng bất kỳ ai.
Việt Nam đến nay chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ điên dại đi khiêu
khích Trung Quốc. Việt Nam cũng không thể chấp nhận việc Trung Quốc cho
phép mình làm gì và bắt mình không được làm gì. Với bất kể lý do gì, một
khi nhà cầm quyền Trung Quốc rắp tâm cản phá con đường sống của nước ta
là cải cách thể chế chính trị, nước ta không có sự lựa chọn nào khác:
Sống hay chết, nước ta phải làm việc nước ta phải làm.
Xin cứ bàn luận rộng rãi, công khai trong cả nước để có quyết tâm:
Cải cách thể chế chính trị là con đường sống của đất nước ta, kể cả
trong quan hệ với Trung Quốc. Thậm chí đấy là con đường tạo dựng ra mối
quan hệ đúng đắn, láng giềng tốt và bền vững với Trung Quốc. Câu chuyện
này chẳng có gì phải giữ bí mật!
Như đã nói ở trên, xin được dành câu hỏi “tiến hành cải
cách thể chế chính trị như thế nào?” cho một chuyên đề khác. Dưới đây
chỉ xin nêu một số nhận định khái quát.
Con đường bạo loạn, lật đổ sẽ chỉ dẫn đất nước đến đổ vỡ, thậm chí có
thể đổ vỡ rất đẫm máu, không loại trừ sự can thiệp từ bên ngoài... Tiếp
theo đó, đến lúc tình hình cho phép, vẫn phải tiến hành nhiệm vụ cải
cách không thể tránh né được, nhưng quá trình này sẽ có thêm nhiều trở
ngại mới nguy hiểm
Nhưng nếu ngoan cố trấn áp nhân dân, dứt khoát cưỡng lại cải cách,
sớm muộn cũng sẽ dẫn đến chế độ bị lật đổ. Song vì quá trình này thiếu
hẳn việc nâng cao dân trí và xây dựng các giá trị cần thiết cho thực
hiện cải cách, nên con đường cải cách tiếp theo bắt buộc phải đi qua sẽ
gian truân hơn nhiều và không loại trừ vấp phải nhiều tổn thất, thất
bại. Thực tiễn các nước Bắc Phi hiện nay đang diễn ra như vậy.
Trong khi đó chủ động cải cách từ trên xuống ở Myanmar đang vạch ra
một triển vọng sáng sủa hơn, không tốn một sinh mạng, kinh tế có được
sinh lực mới, thể chế chính trị đi vào con đường dân chủ, vị thế đối
ngoại của đất nước được nâng cao đáng kể, kết quả tổng hợp là độc lập và
chủ quyền của Myanmar vững chắc hơn trước.
Dứt khoát không nên dẫn giải các câu chuyện ở Bắc Phi hiện nay, hù dọa “nguy cơ Ai-cập”.., tất cả với ý định lẩn tránh cải cách.
Câu chuyện Ram Sainry sau bầu cử tháng 7 vừa qua ở Campuchia cũng
đáng được phân tích, để tránh cho sự nghiệp cải cách ở nước ta những
bước đi quanh co không cần thiết.
Chúng ta có nhiều thông tin về nền dân chủ hoàng gia ở Thái Lan, một
nước tiếp cận với dân chủ sớm nhất Đông Nam Á, nhưng đến nay vẫn chưa
sao tránh được cứ dăm ba năm lại đảo chính một lần.
Chúng ta cũng có những kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc về xây
dựng nhà nước pháp quyền dân chủ như một khâu quyết định trong việc đưa
đất nước đi lên thành NIC. Giữa thập niên 1950, lúc khởi sự con đường
dẫn tới Hàn Quốc hôm nay, GDP p.c. Hàn Quốc chỉ đạt có 80 USD (tương
đương với GDP p.c. gần 200 USD của Việt Nam năm 1986 khi tiến hành đổi
mới), trong một thể chế chính trị quân phiệt gần như là tàn dư của chiến
tranh, nhưng có tinh thần gìn giữ các giá trị của dân tộc mình, quyết
học hỏi, có ý chí đuổi và vượt hàng của Nhật, làm việc cật lực và có
trách nhiệm – nhất là trong cơ quan nhà nước (ở Việt Nam không thể nói
như vậy), trong đời sống kinh tế - chính trị - xã hội rất hiếm không
gian cho “làm giả, ăn thật”… Có nhiều lý do để xem việc xây dựng nhà
nước pháp quyền dân chủ ở Hàn Quốc vừa đặt nền móng, vừa tạo ra cú hích
cho Hàn Quốc bước lên con đường trở thành NIC hôm nay.
Chúng ta có không biết bao nhiêu thông tin về quá trình cải cách liên
tục, cải cách không ngừng của các nước phát triển từ giữa thế kỷ 20 cho
đến nay; rồi đến những bài học cải cách của các nước LXĐA cũ…
Lợi thế nước đi sau cho phép nước ta học hỏi được rất nhiều từ các
nước đi trước, để dựng lên cả một chiến lược cải cách, thiết kế một chế
độ xã hội phát triển và lộ trình của con đường cải cách để đi tới cái
đích ấy.
Để bảo tồn mọi thành quả đã giành được trên chặng đường 38 năm qua,
nhờ đó có lực ra khỏi khủng hoảng hiện nay, chống đỡ mọi biến động bất
thường bên trong hoặc bên ngoài, và mở đường cho một giai đoạn phát
triển mới của đất nước, có con đường nào hơn là cải cách thể chế chính
trị?
Cái khó là sự ngoan cố của quyền lực, chứ không phải là đất nước ta
không đủ trình độ cải cách[96]. Tình trạng lạc hậu và bối cảnh chính trị
nhạy cảm hiện nay của đất nước ta càng không phải là lý do để trì hoãn
cải cách, mà là sự thôi thúc sống còn phải cải cách. Với tính cách là
đảng duy nhất cầm quyền và là lực lượng chính trị mạnh nhất, nếu ĐCSVN
đặt lợi ích quốc gia lên trên hết và chủ động đề xướng cải cách, Việt
Nam sẽ thuận lợi hơn Myanmar rất nhiều. Trước hết các đảng viên ĐCSVN
yêu nước phải nhận thức ra điều này. Rất nên có các diễn đàn trong cả
nước, trong nội bộ ĐCSVN.., thảo luận công khai và dân chủ về sự bức
thiết của cải cách, tìm kiếm mọi khả năng tiến hành cải cách thành công ở
nước ta. Đừng bắt nhân dân ta và đất nước sẽ phải một lần nữa đau khổ
vì những hiểm họa đang đến phía trước!
Tôi thực sự tin rằng kho tàng trí tuệ của thế giới sẽ trợ giúp chúng
ta thỏa đáng trong sự nghiệp đổi đời đất nước lần này, cũng là đổi đời
chính mỗi người Việt Nam chúng ta. Có sự đồng thuận dân tộc trên cơ sở
của trí tuệ có học hỏi như thế, sẽ làm nên tất cả.
Một cơ may hay là một cơ hội, đúng vào thời điểm này đang tiến hành
việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. ĐCSVN nên nhân dịp này thực hiện dân
chủ và công khai minh bạch trong việc huy động trí tuệ cả nước xây dựng
một Hiến pháp mới, đặt nền móng đầu tiên cho việc tiến hành cuộc cải
cách quyết định vận mệnh và tiền đồ của đất nước.
Làm như vậy là lãnh đạo.
Không làm như vậy, thậm chí xuyên tạc và tìm cách bóp chết mọi ý kiến
đúng đắn của nhân dân về xây dựng Hiến pháp, có nghĩa là ĐCSVN tự tay
vứt bỏ vai trò lãnh đạo mà ĐCSVN giành lấy cho mình, để tiếp tục duy trì
vị thế đảng cai trị. Không có cách gì có thể bào chữa được.
Việc sửa đổi Hiến pháp như hệ thống chính trị hiện nay đang làm không
khác bao nhiêu việc “dắt trâu qua rào”, chỉ để bảo toàn một hệ thống
quyền lực cai trị đang tiếp tục đẩy đất nước đi sâu vào bế tắc và khủng
hoảng. Làm như thế, phải chăng ĐCSVN đang muốn bảo toàn quyền lực thống
trị của mình bằng cách tiếp tục làm thui chột đất nước?
Tại đây xin nêu một câu hỏi có thể nhiều người không thích nghe:
Tại sao một ĐCSVN vì nước vì dân với tính cách là người nắm trọn mọi
quyền lực trong tay không dựa vào trí tuệ và nguyện vọng của nhân dân để
tiến hành một cuộc cải cách chính trị từ trên xuống, mở đầu bằng việc
phát huy dân chủ, thực hiện công khai minh bạch, tổ chức cho nhân dân
xây xựng thành công một Hiến pháp mới?
Bất kể một cuộc cải cách nào, có khả năng thành công nhất, với cái
giá phải trả thấp nhất, bao giờ cũng vẫn là một cuộc cải cách chủ động
(cả từ phía dân và phía nhà nước) và từ trên xuống, trong hòa bình, hòa
giải, không bạo lực. Lịch sử, và khắp thế giới đều có kinh nghiệm như
vậy. Song kinh nghiệm cũng cho thấy chẳng có cuộc cải cách nào là dễ, là
không phải trả giá; vấn đề quyết định chỉ là ở chỗ cái giá phải trả sao
cho thúc đẩy được, chứ không làm đổ vỡ cải cách.
Không phải nói đâu xa, đổi mới 1986 chính là một cuộc cải cách kinh
tế từ trên xuống, do ĐCSVN tiến hành, được thực hiện trên cơ sở dựa vào
những đòi hỏi của cuộc sống, của nhân dân và cuối cùng là chế độ chính
trị chịu chấp nhận nhìn thẳng vào sự thật. Đấy là một cuộc cải cách hòa
bình. Nhờ thành công của đổi mới đất nước mới được như hôm nay.
Cái giá lớn nhất ĐCSVN sẽ phải trả cho cải cách và cho Hiến pháp mới
là phải rút lại cái quyền tự ban cho mình là đứng trên và đứng ngoài
Hiến pháp (Điều 4), chịu mất đi mọi đặc quyền đặc lợi vốn là cái nôi
sinh sản những quyết sách sai lầm và nuôi dưỡng sự tha hóa cũng như mọi
tệ nạn quan liêu tham nhũng của Đảng, của toàn bộ hệ thống chính trị và
bộ máy nhà nước. Tất cả những đặc quyền đặc lợi này đã và đang làm hỏng
toàn bộ xã hội và đời sống mọi mặt của đất nước. Vứt bỏ những thứ xấu xa
ấy là không đáng hay sao?
Song đổi lại, cái được lớn nhất là ĐCSVN có những điều kiện tốt nhất
trong cả nước để từ đảng cai trị phấn đấu trở thành đảng lãnh đạo. Và
nhờ có vai trò lãnh đạo có thực chất như vậy, ĐCSVN sẽ có điều kiện tốt
nhất tranh thủ lá phiếu của nhân dân thông qua bầu cử trung thực, qua đó
trở thành đảng cầm quyền một cách chính danh và chính đáng. Nền tảng
nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự được xây dựng nên như thế trong cải
cách chẳng những là cần thiết cho phát triển kinh tế nói riêng (kinh tế
thị trường) và cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung, mà
còn là không gian đáng mong muốn duy nhất cho rèn giũa lý tưởng và phẩm
chất chính trị của ĐCSVN. Một sự lựa chọn như thế là sự lựa chọn đi với
dân tộc, phục vụ sự nghiệp của đất nước[97].
Chỉ có cải cách chủ động và từ trên xuống như thế, mới có thể chắc
chắn thực hiện được cải cách trong hòa bình, không bạo lực và thành công
sớm nhất: dân tộc hòa giải, đất nước phát triển hài hòa, bạn bè thế
giới hậu thuẫn. Đây chính là thế vững như bàn thạch của đất nước, có thể
làm thất bại mọi can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào và dù từ đâu tới.
Cải cách chủ động và từ trên xuống như thế là con đường lý tưởng nhất
của nước ta lúc này. Lý tưởng cho cả ĐCSVN trong quá trình lột xác thành
một đảng mới của dân tộc.
Không có cải cách chủ động và từ trên xuống như thế, áp lực của cải
cách thường dễ biến thành sự bùng nổ, khó kiểm soát, rất dễ dẫn tới bạo
lực.
Xin nhấn mạnh: Với tư cách là đảng duy nhất cầm quyền và là lực lượng
chính trị lớn nhất của đất nước, ĐCSVN là người có trách nhiệm đầu tiên
và trước hết đề xướng và phát huy trí tuệ, tâm huyết cả nước thực hiện
thắng lợi cuộc cải cách chính trị trọng đại này. Làm như vậy, chắc chắn
ĐCSVN sẽ nhận được từ nhân dân sự hậu thuẫn để làm nên lịch sử: Một Việt
Nam từ nay và mãi mãi là chính mình, dấn thân cùng với cả thế giới tiến
bộ.
Bác bỏ cải cách, đấy sẽ là sự lựa chọn đối kháng với nguyện vọng chính đáng của nhân dân và phản lại lợi ích quốc gia.
*
Sự thật là đất nước ta hiện nay đang lâm vào một cuộc khủng hoảng
kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội toàn diện. Xin lưu ý, Liên Xô cũ
tuy có nhiều yếu kém dai dẳng, nhưng vẫn là một siêu cường, nhiều thập
kỷ đối mặt ngang ngửa với Mỹ. Song một khi diễn tiến của tha hóa dẫn tới
sụp đổ các thang giá trị trong lòng xã hội xô-viết và trong lòng dân,
Liên Xô hùng cường tự sập đổ không ai biết trước, không ai có thể cứu
vãn được.
Sự thật là con giun xéo mãi cũng oằn. Đất nước đã có những tiếng nói
trực diện và quyết liệt chống lại. Đó là những tiếng nói của Nguyễn
Phương Uyên, Lê Hiếu Đằng, của những người trong thế hệ trẻ đòi hủy bỏ
Điều 258 của Bộ Luật Hình Sự, của những người hiên ngang đeo giữa ngực
biểu tượng “No U!” (Nói không với “đường lưỡi bò”) bất chấp bị bắt bớ,
của những người đòi hủy bỏ Nghị định 72, là tiếng súng Đoàn Văn Vươn, là
những tiếng nói của trí tuệ, của chính nghĩa và của đoàn kết hòa giải
dân tộc đóng góp vào việc sửa đổi Hiến pháp mà hiện nay ĐCSVN đang cố
tình bỏ ngoài tai…
Hơn lúc nào hết, đã đến lúc ĐCSVN phải nhìn thẳng vào sự thật, như
một lần Đảng đã từng nhìn thằng vào sự thật năm 1986, và nhờ đó Đại hội
VI đã đi tới các quyết định đảo ngược tình thế.
Thế giới ngày nay đang thay đổi với biết bao nhiêu vấn đề nóng bỏng
liên quan đến mọi quốc gia; trong đó ASEAN trở thành một trọng tâm của
những vấn đề nhạy cảm ở CA-TBD, Việt Nam rơi vào vị trí nhạy cảm nhất;
vấn đề Trung Quốc là vấn đề của cả thế giới – nhưng Việt Nam bị uy hiếp
trực tiếp nhất. Trong bối cảnh như thế, nước ta lại đang bế tắc đứng
trước ngã ba đường: Giai đoạn phát triển đầu tiên của đất nước đã kết
thúc trong khủng hoảng, hầu như chưa chuẩn bị được bao nhiêu cho giai
đoạn sau; chẳng lẽ bây giờ chịu khuất phục quán tính để nhắm mắt bước
tiếp vào đường cụt? hay là phải cải cách để khai phá một con đường phát
triển mới cho đất nước?
Những thách thức trong và ngoài rất quyết liệt đang đặt ra cho đất
nước tại ngã ba đường này, đồng thời cuộc sống đòi hỏi bức xúc đất nước
phải trở thành một Việt Nam của dân chủ - độc lập – tự do – hạnh phúc và
đáp ứng sự tin yêu của bạn bè, phải chăng tất cả những yếu tố này đang
tạo ra cho nước ta một cơ hội lịch sử cần nắm lấy? Một cơ hội trở thành
một Việt Nam của phẩm giá mà sau 30-04-1975 nước ta đã bỏ lỡ!
Ở ngã ba đường này, đã đến lúc mỗi người Việt Nam chúng ta phải lựa chọn quyết định cho đất nước và cho chính bản thân mình!
Hay là trong góc tối vẫn đang lấp ló con đường trở lại Thành Đô?
Hết
Võng Thị, Hà Nội, Tháng Tám 2013
Nguyễn Trung
----------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Các sách và bài đã được dẫn, trích dẫn và đã được nêu trong các chú thích.
2. Nguyễn Trung, tiểu thuyết “Lũ”, tập I, tập II
3. Nguyễn Trung, “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”
4. Nguyễn Trung, “Hiến pháp - và những bất cập của Dự thảo sửa đổi”
5. Nguyễn Trung, “Đảng – Nhà nước – Hiến pháp, Vài suy nghĩ về sửa đổi Hiến pháp 1992” http://www.viet- studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_Dang_NhaNuoc_HienPhap.htm
6. Nguyễn Trung, “Đừng xuyên tạc lịch sử để đưa những điều sai trái vào Dự thảo Hiến pháp sửa đổi” http://viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_DungXuyenTacLichSu.htm
7. Nguyễn Trung, “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990” http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ChanDungThanhDo.htm
8. Nguyễn Trung, “Diễn văn của Tổng thống CHLB Đức, Joachim Gauck” http://viet-studies.info/NguyenTrung/MguyenTrung_DienVanTongThongDuc.htm
9. Nguyễn Trung, “Câu chuyện Myanmar”, http://viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CauChuyenMyanmar.htm
10. Nguyễn Trung, Thư ngỏ ngày 19-02-2013, http://viet- studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ThuNgoGuiLanhDao.htm
__________________________________________________________________
[51] Chú thích: GDP của Mỹ năm 1948 là 258 tỷ USD.
[52] Mệnh đề “…Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020…”
được ĐCSVN sửa đi sửa lại qua các kỳ đại hội, không hỏi ý kiến cả nước,
cũng không giải thích. Hiện nay, ngôn từ chính thống trong các văn kiện
của ĐCSVN là “…Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020…” - được ngầm hiểu là mục tiêu này điều chỉnh thấp
xuống một chút, hay đây là cách nói co giãn thời gian.
[53] Tai các nước công nghiệp như Mỹ, Canada, Úc, các nước ở Tây Âu,
các nước ở Nam Mỹ… diện tích canh tác bình quân của một lao động nông
nghiệp tùy nơi là vài chục ha hoặc lớn hơn nhiều.
[54] Có qua nhiều mối nguy lớn: 70% phụ tùng cho các xí nghiệp FDI
trong cả nước phải nhập khẩu, nguyên liệu cho công nghiệp dệt may hầu
như nhập ngoại 80 – 100%, đầu ra của sản phẩm trung gian (ví dụ như
xi-măng, thép…) vượt xa khả năng tiêu thụ trong nước nên phụ thuộc
nghiêm trọng vào xuất khẩu nhưng giá thành cao, phần lớn phôi thép cũng
phải nhập…
[55] Mức tiêu thụ đầu vào cho một sản phẩm công nghiệp ở nước ta hiện nay cao hơn hầu hết các nước trong khu vực.
[56] Trên danh nghĩa là của tập đoàn FORMOSA – Đài Loan. Trên thực tế thì còn nhiều điều phải thận trọng.
[57] Vì làm ô nhiễm trầm trọng môi trường tự nhiên, tiêu thụ quá
nhiều tài nguyên và năng lượng như nước, điện, các loại khoáng sản hay
nguyên liệu khác, chiếm quá nhiều diện tích đất đai…
[58] Mỏ sắt Thạch Khê đang là một thách đố lớn- trước đây Liên Xô cũ
và tập đoàn Krup (lúc đó còn tồn tại Tây Đức) đã bỏ không đi tiếp triển
khai dự án này, trước hết vì còn nhiều vấn đề về môi trường quá lớn liên
quan đến biển – nơi mỏ gần biển nhất chưa đến 1 km, sẽ rất tốn kém…
[59] Trong một hai thập kỷ nay, cứ nhìn khối lượng nhập khẩu xe ô-tô
du lịch tăng vọt qua các năm, nhìn khối lượng các quan chức các tỉnh mua
nhà tại các thành phố… sẽ có thể suy luận ra nhiều điều.
[60] Có những ý kiến đánh giá khác nhau về vấn đề này; ý kiến của tôi
là có 4 cuộc khủng hoảng, trong đó cuộc khủng hoảng năm 1997 và cuộc
khủng hoảng hiên nay bắt đầu từ năm 2007 là lớn nhất.
[61] Ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia, một số nước Nam Mỹ… thời kỳ
phát triển năng động ở giai đoạn khởi đầu quá rình CNH kéo dài hơn ở
nước ta – thường là vài thập kỷ liên tục.
[62] Như đã chứng minh cụ thể trong phần nói về nông nghiệp, trong đó
có các quan điểm về hiện đại hóa nông nghiệp, vấn đề tích tụ ruộng đất,
kinh tế trang trại, vấn đề 3ha / 1 lao động nông nghiệp, vân vân…
[63] Không thể không đặt ra câu hỏi, tại sao một đảng kiên cường và
giầu kinh nghiệm đấu tranh trong thời kháng chiến, lại thất bại như thế
trong thời bình? Đây là vấn đề chính bản thân ĐCSVN phải quan tâm mổ xẻ
trước tiên - vì lợi ích sự tồn tại của đảng mình, song quan trọng hơn
thế nhiều lần là vì ĐCSVN cần kiểm điểm trách nhiệm không thể thoái thác
của mình trước đất nước với tính cách là đảng cầm quyền duy nhất, toàn
diện và tuyệt đối.
[64] Các số liệu thống kê đưa ra thay đổi soành soạch và không tin
cậy được – ví dụ có số liệu nói nợ xấu của ngành ngân hàng ước 6% tổng
dư nợ, nhưng vài hôm sau lại có số liệu nói là 35%, vân vân…
[65] Tham khảo:
(1) Diễn đàn Kinh tế mùa Thu 2012 - Ủy ban kinh tế
ecna.gov.vn/ct/ht/Lists/HoiThao/View_Detail.aspx?...
và Báo cáo của Ngân hàng Thế giới – Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam – Hà Nội 10-12-2012;
(2) Thủ tướng Dũng có cứu vãn được kinh tế Việt Nam?
Phạm Chí Dũng
(3) Kinh tế Việt Nam 2012-2013: Cơ hội xoay chuyển tình thế?*
(4) Thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam và giải pháp tháo gỡ
http://www.tapchitaichinh.vn/Trao-doi-Binh-luan/Thuc-trang-no-xau-tai-cac-ngan-hang-Viet-Nam-va-giai-phap-thao-go/16290.tctc & 'Nửa triệu tỷ đồng nợ xấu ngân hàng' - VnExpress Kinh Doanh
kinhdoanh.vnexpress.net/.../ngan-hang/nua-trieu-ty-d...
(5) Quá khứ đồng nhất tương lai và 'cái chết' của giới ngân hàng
·
(6) Một số vấn đề về nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước
(7) “Vietnam’s Economy: Sabotaged From Within” January 29, 2013 By James Parker, tìm trong The Diplomat http://thediplomat.com/pacific-money/2013/01/29/vietnams-economy-sabotaged-from-within/
Vân vân…
[66] Tìm hiểu các tư liệu và số liệu nêu trong tạp chí Xây dựng Đảng các năm gần đây.
[67] Một giai thoại: Lúc là đương kim thủ tướng, Võ Văn Kiệt nhiều
lần đề xuất phải cải cách hệ thống chính trị của đất nước, nhưng không
được chấp nhận. Để phục vụ minh họa những lý lẽ của ông về sự cần thiết
phải thực hiện cuộc cải cách này, đã có lần ông yêu cầu các chuyên gia
của mình vẽ lên một sơ đồ phác họa toàn bộ hệ thống chính trị của đất
nước bao gồm 4 thành tố: Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đòan thể quần
chúng. Kết quả: Các chuyên gia đành bó tay: Một sơ đồ có thể dựng lên dù
rối rắm đến thế nào cũng không thể minh họa hết được cấu trúc phức tạp
và các mối quan hệ quyền lực qua lại trong không gian nhiều chiều giữa 4
thành tố này của hệ thống quyền lực. Nhưng cái sơ đồ bất thành này lại
cho thấy: Luật pháp trở thành vô nghĩa trong một hệ thống quá rối rắm
như thế, sự lũng đoạn hay là ảnh hưởng hoặc sự thâu tóm của vai trò cá
nhân mới là điều quyết định.
[68]Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tin như vậy. Song khi đi khảo
sát địa phương, chính bà cũng phải kêu lên: “Người ta ăn của dân không
từ cái gì!”
[69] Ví dụ: Có những affairs các nhóm lợi ích mặc cả với nhau: Giải
quyết việc này sẽ hết bao nhiêu “quan hệ”? Khái niệm “quan hệ” này chứa
đựng những gì? Khối lượng tiền?, “sổ đỏ”, “dự án”, “cơ chế”, cái bằng?
cái ghế?, “cặp chân dài”, trao đổi giữa “tội” với “tội”, trao đổi giữa
“tội” và “cơ hội”… vân vân và vân vân… Chỉ có chúa trời mới biết được
đích xác!
[70] Có một sự thật đang bị trối bỏ: Gần 3 thập kỷ nay công cuộc cải
cách giáo dục của nước nhà hoàn toàn thất bại, cho đến nay đất nước ta
chỉ có một nền giáo dục đào tạo ra con người công cụ, không phải là con
người của chính nó và sáng tạo. Một nền giáo dục như thế trên thực tế
đang góp phần không nhỏ vào việc hủy hoại các giá trị chân chính và đạo
đức xã hội. Qua những con người trong các bộ máy của hệ thống chính trị
do nền giáo dục này (bao gồm cả hệ thống trường Đảng) đào tạo nên, đất
nước đang bị làm hỏng và biến dạng nghiêm trọng về mọi mặt. Nền giáo
dục hiện tại đang trực tiếp làm hỏng các thế hệ con người của đất nước,
vì trong bản thân nó ngấm ngầm tồn tại quá nhiều cái sai trái, cái lạc
hậu… Những nỗ lực bỏ ra cho cải cách giáo dục là rất lớn và rất tốn
kém, nhưng cho đến nay đều không mang lại kết quả mong muốn. Nguyên nhân
chính là những nỗ lực này không thắng nổi 2 kẻ tử thù của giáo dục là
tham nhũng và dối trá. Đó lại chính là 2 kẻ thù có chỗ ẩn náu rất sâu
trong hệ thống chính trị của đất nước, được nuôi dưỡng bằng mọi giá trị
và văn hóa của chính hệ thống chính trị này sản sinh ra. Đã đến lúc cần
rút ra kết luận: Cải cách giáo dục chỉ có thể thành công khi đồng thời
cả nước tiến hành cuộc cải cách chính trị sâu sắc. Lịch sử ngàn năm của
nước ta các thời đã chứng minh: Không thể nào có một nền giáo dục chân
chính trong một chế độ xã hội bất lương (tham khảo: Hoàng Lê Nhất Thống
Chí).
[71] Khái niệm được sử dụng thời đó.
[72] Tham khảo các văn kiện của ĐCSVN sau chiến thắng 30-04-1975, các văn kiện các Đại hội toàn quốc ĐCSVN từ đại hội IV.
[73] Xin đừng quên: Sau 30-04-1975, cơ hội bình thường hóa quan hệ
với Mỹ và với các nước ASEAN đến sớm hơn rất nhiều so với việc bình
thường hóa đã diễn ra. Đã gần 4 thập kỷ đã trôi qua, thiết nghĩ lưu trữ
quốc gia Việt Nam nên sớm bạch hóa chuyện này.
[74] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, tiểu thuyết Dòng đời, http://viet-studies.info/NguyenTrung/
[75] Tham khảo: YOSHIHARU TSUBOI Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa - Lịch sử Việt Nam www.lichsuvietnam.info/index.php?...
Không phải ngẫu nhiên một số học giả đã đề ra ý tưởng “thóat Á luận”,
“thoát Trung Quốc luận” để giải thoát nước ta khỏi cái quán tính đầy tai
ác của lịch sử.
[76] (1) Năm 2009, nhân dịp 20 năm ngày nổ ra chiến tranh 17-02-79,
sách và báo Trung Quốc có một số bài thừa nhận cuộc chiến 1984 của quân
Trung Quốc chiếm vùng Núi Đất của ta vấp phải sự kháng cự vượt sức tưởng
tượng của họ, gọi đấy là một trận “tiểu Stalingrad”, mỗi bên thương
vong hàng nghìn binh sỹ.
(2) Trận chiến núi Đất năm 1984 giữa Việt Nam và Trung Quốc
[77] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990” http://www.vietstudies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_ChanDungThanhDo.htm
[78] Tham khảo: Trần Quang Cơ, “Hồi ức và suy nghĩ”, tìm trên các trang web.
[79] Xin lưu ý, khi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam theo lập
trường của phía Trung Quốc, phía Trung Quốc nhấn mạnh: Khép lại quá khứ,
hướng tới tương lai, là đồng chí (ý nói cùng là xã hội chủ nghĩa), chứ
không phải là đồng minh (ý nói không có chuyện đứng chung với nhau một
chiến tuyến trong bất kể việc gì). Như vậy đây là thứ quan hệ gì?
[80] Đối với ĐCSVN, tôi nghĩ câu hỏi này vô cùng quan trọng tới mức
sống còn (to be or not to be?!); bởi lẽ câu hỏi này đòi ĐCSVN phải xem
lại chính mình: Tổ quốc trên hết, hay ý thức hệ trên hết!
[81] Sau khi ra khỏi cuộc chiến tranh Trung – Triều 1950 – 1953,
chính thể Hàn Quốc dười thời Lý Thừa Vãn và Pác Chung Hy là một chính
thể độc tài, quân phiệt khét tiếng. Tuy nhiên, đặt trên nền móng dù chưa
hoàn hảo của kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền, sự phát triển
của Hàn Quốc dần dần dựa trên một nền móng hoàn hảo hơn của kinh tế thị
trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự, được nuôi dưỡng bởi một
nền giáo dục coi trọng phát huy các giá trị. Đấy là những yếu tố cơ bản
chuyển hóa Hàn Quốc thời hậu chiến thành nước công nghiệp phát triển
như ngày nay.
[82] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, tiểu thuyết “Lũ”, tập II, tr. 499… và tr. 554…,
[83] Tổng thống Nga Yeltsin đã từng nói như vậy và đã làm mọi việc xóa bỏ ĐCSLX qua tòa án hiến pháp.
[84] Nhìn lại, có thể có căn cứ xác đáng để nhận định: Võ Văn Kiệt
đã sớm có ý tưởng này giữa lúc ông là đương kim thủ tướng. Trong bức thư
ngày 09-08-1995 gửi Bộ Chính trị ĐCSVN ông nêu ra 4 vấn đề: (1)Phải
nhìn nhận lại thế giới; (2) Phải xem lại đường lối phát triển đất nước;
(3) Phải xây dựng nhà nước pháp quyền; (4)Phải xây dựng lại ĐCSVN về tổ
chức và về đường lối, loại bỏ cái gọi là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Cho đến khi đi xa..., ông vẫn kiên trì quan điểm phải xây dựng lại ĐCSVN
trở thành đảng của dân tộc.
[85] Tham khảo bài đã dẫn: Nguyễn Trung, “Diễn văn của Tổng thống CHLB Đức, Joachim Gauck” http://viet-studies.info/NguyenTrung/MguyenTrung_DienVanTongThongDuc.htm
[86] Ví dụ gần đây nhất là Sam Rainsy, người cầm đầu đảng đối lập -
“đảng Cứu quốc Campuchia” (CNRP) - trong và sau tranh cử tháng 7 vừa
qua đã nhiều lần nói các vùng biển – đảo Trung Quốc đòi hỏi trên Biển
Đông đều thuộc chủ quyền Trung Quốc, ông ta hoàn toàn ủng hộ, các phát
biểu rất xấu của ông ta trực tiếp chia rẽ mối quan hệ Việt Nam –
Campuchia, vân vân… Cách xử sự của Campuchia hiện nay trong vấn đề Biển
Đông rất đáng lo ngại… Hiện nay sự can thiệp trực tiếp dưới nhiều hình
thức của quyền lực mềm Trung Quốc vào Lào và Campuchia là toàn diện và ở
mức độ rất nguy hiểm.
[87] (1)Thái độ dè dặt của Campuchia đối với lập trường các nước
ASEAN trong vấn đề Biển Đông, đối với COC, và (2) sự hậu thuẫn của
Campuchia dành cho lập trường Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông trong
các cuộc họp của ASEAN là những động thái được lặp đi lặp lại. Sự việc
này cắt nghĩa nhiều điều.
[88] Thực tế này đã xảy ra khi Việt Nam chưa giải quyết được vấn đề Campuchia suốt thập niên 1980.
[89] Một trong những ví dụ gần đây nhất là phía Việt Nam bào chữa cho
nghị định 72, phản bác ý kiến phê phán của Mỹ; trong khi đó nhiều trí
thức Việt Nam đã công khai đòi hủy bỏ nghị định này.
[90] Một doanh nhân là bạn của tôi kể cho tôi nghe mẩu đối thoại của
anh ta với một doanh nhân Israel, đại ý: Các bạn Việt nam thường nói
nhiều về áp lực từ Trung Quốc; điều này đúng. Nhưng dù sao áp lực như
thế nhìn về mặt dân số thì khó khăn ở Việt Nam cũng mới chỉ là tỷ lệ 1 /
13, còn Israel chúng tôi tỷ lệ áp lực này là 1 / 35, lại còn thêm Đạo
Hồi nữa. Hai nước chúng ta chẳng có quyền chọn hay không chọn vị trí
địa lý chúa ban cho như thế, mà chỉ có mỗi con đường phải sống!..
[91] Lịch sử quan hệ quốc tế cận đại và hiện nay có không ít quốc
gia ở vào thế bị các quyền lực bên ngoài o ép, co kéo, giằng xé tứ
phương. Thành công điển hình trong bảo vệ chính mình trước tình huống
này có lẽ là Thụy Sỹ từ trước đến nay, và hiện nay là Israel, ngoài ra
cũng phải kể đến một số nước vùng Scandinavie (BẮc Âu).
[92] Khẩu hiệu của Cách mạng Tháng Tám làm nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
[93] Trong giới nghiên cứu Mỹ có ý kiến đại ý: Kinh nghiệm với Iraq,
Afghanistan, các nước Bắc Phi… cho thấy Mỹ không thể gửi trứng cho đối
tượng mình không chắc chắn hợp tác được, chờ cho Việt Nam qua giai đoạn
chập chờn Mỹ sẽ quyết định cũng không muộn.
[94] Tham khảo: Nguyễn Trung, tiểu thuyết “Lũ”, tập II – tr. 642…, tr. 695…
[95] Cho đến thời Hồ Cẩm Đào, phía Trung Quốc chỉ nêu “gác tranh
chấp, cùng khai thác”. Từ cuối nhiệm kỳ Hồ Cẩm Đào và đặc biệt là sau
Đại hội 18 của ĐCSTQ, lập trường của Trung Quốc bây giờ là “chủ quyền
thuộc Trung Quốc, cùng khai thác”.
[96] Nếu so nước ta bây giờ với lúc Liên Xô tiến hành Glasnos và
Perestroika thời Gorbachov / Yeltsin, Việt Nam ngày nay có nhiều hiểu
biết và thông tin cần thiết cho cải cách chính trị hơn Liên Xô thời ấy
rất nhiều, chưa nói đến kinh nghiệm trên thế giới bây giờ về thắng / bại
của cải cách chính trị vô cùng phong phú.
[97] Tham khảo:
(1) thư của luật sư Trần Vũ Hải ngày 22-08-2013 gửi UB Thường vụ Quốc
hội Việt Nam về “THÀNH LẬP VÀ THAM GIA MỘT ĐẢNG NGOÀI ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LUẬT VIỆT NAM”
(2) Hoàng Xuân Phú, “Uẩn khúc trong Điều 4 của Hiến pháp” http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/index.php?page=readwriting&w=UanKhuatTrongDieu4HienPhap-20130829