Luật sư Vũ Đức Khanh/Asia Times
Lê Quốc Tuấn chuyển ngữ
Lê Quốc Tuấn chuyển ngữ
Thành công của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á và chính sách "chuyển trục"của
họ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ xây dựng trên sức mạnh của
quan hệ đối tác với các đồng minh chiến lược. Các đồng minh lâu đời như
Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc đã mang lại cho Mỹ những hỗ trợ mạnh mẽ trong
khu vực, nhưng để thực hiện "chuyển trục", Washington cần mở rộng các
đối tác chiến lược đáng tin cậy.
Việt Nam có tiềm năng để phục vụ như một trong những đối tác: Hà Nội,
dưới sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay hay một chế độ
chính trị khác trong tương lai, đã, đang và sẽ luôn luôn quan tâm đến
ảnh hưởng và ý định của Trung Quốc, người phương Bắc khổng lồ của mình.
Cho nên, dù là Liên Xô trong thời Chiến tranh Lạnh hay có lẽ là nước
Mỹ ngày nay, Việt Nam luôn luôn trông đợi một đồng minh quyền lực lớn để
cân bằng với Trung Quốc. Rõ ràng, thực tế địa chính trị của Việt Nam và
các quan tâm chiến lược chồng chất đã mang đến cho Mỹ một cơ hội quý
giá để củng cố vị trí của mình một cách đáng kể trong khu vực Đông Nam Á
và Châu Á-Thái Bình Dương rộng lớn hơn.
Mặc dù Việt Nam và Trung Quốc đều được cai trị bởi các đảng Cộng sản
chỉ trên danh nghĩa, hiện nay các tổ chức này phần lớn đã ly dị khỏi ý
thức hệ. Tuy nhiên, mối tương đồng giữa hai nước này chỉ có thế. Trong
khi cả hai chế độ đều duy trì nền cai trị độc đảng không đối thủ trên
đất nước của họ, Việt Nam chẳng thể nào là một đồng minh đáng tin cậy
của Trung Quốc, bằng chứng là các cuộc xung đột trong quá khứ và hiện
tại cùng các tranh chấp về lãnh thổ và lãnh hải.
Để Hoa Kỳ có thể tận dụng tình trạng hiện tại "không rõ rệt", trạng
thái không phải bạn bè, cũng chẳng phải kẻ thù của Việt Nam, trước tiên
Hoa kỳ phải giải quyết nhiều vấn đề, bao gồm tình trạng thiếu dânchủ,
các thành tích tệ hại về quyền con người của Hà Nội và việc xoay sở
chông đõ với mối lo từ Trung Quốc về sự xuất hiện của một tiềm năng đại
diện cho nước Mỹ ở sát cạnh.
Mỹ không thể dễ dàng bỏ qua những vi phạm nhân quyền của Việt Nam,
bao gồm một cuộc đàn áp chồng chất lên các nhà bất đồng chính kiến bắt
đầu từ năm 2009. Tuy nhiên, Mỹ cũng không thể đẩy nhà cầm quyền cộng
sản Việt Nam vào thế kẹt.
Thách thức của Washington là phải xác định mình cần nhượng bộ đến đâu
để tiếp cận được thị trường,bến cảng và vị trí đối đầu chiến lược với
Trung Quốc của Viêt Nam. Căn cứ vào việc Mỹ có thể sẽ đòi hỏi - về sự
tôn trọng các quy định của pháp luật và cải thiện đáng kể trong quyền
con người - hai bên sẽ khó có thể tấn công vào một thỏa hiệp được hai
bên cùng chấp nhận.
Trung Quốc cũng không thể nhắm mắt làm ngơ cho bất kỳ thay đổi tiềm
năng nào ở Việt Nam vốn sẽ đe dọa đến mức độ ảnh hưởng của Bắc Kinh tại
Hà Nội. Việt Nam và Trung Quốc hiện đang bị lôi kéo vào cuộc tranh cãi
về tranh chấp lãnh thổ trên quần đảo phong phú dầu khí Trường Sa và
Hoàng Sa đang gia tăng bất ổn và dễ bùng nổ.
Mối quan tâm của Bắc Kinh có thể được xoa dịu bởi thực tế là các nhà
lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam không có khả năng mở ra bất kỳ cải cách
chính trị nào, bao gồm việc nới lỏng bất đồng chính kiến về chính trị,
vốn cuối cùng có thể tạo điều kiện cho sự sụp đổ của họ. Hơn nữa, Bắc
Kinh có thể thư giãn với niềm tin rằng bất kỳ nỗ lực mạnh mẽ nào của Hoa
Kỳ để thực hiện thay đổi chính trị ở Việt Nam sẽ chỉ thúc đẩy các nhà
lãnh đạo của đất nước này trở nên gần gũi hơn với Trung Quốc.
Đối với Hoa Kỳ, chiến lược tiến thoái lưỡng nan của Hà Nội mang đến
cho Washington một cơ hội để chơi một trò chơi dài, trong đó cải cách
chính trị không xảy ra ngay lập tức nhưng chắc chắn sẽ phải đến. Nơi
quyền lực là tuyệt đối và vô phương kiểm soát như ở Việt Nam, các nhà
lãnh đạo không muốn thực hiện những thay đổi khiến sẽ dẫn đến hậy quả là
sự suy giảm ảnh hưởng và kiểm soát của họ.
Căng thẳng ngoại giao
Chiến lược của Mỹ ở Việt Nam không những phải thoả mãn cảm giác tự
bảo vệ để tồn tại của các nhà lãnh đạo Việt Nam mà còn phải hành động để
cải thiện nhân quyền. Đó là một sợi dây căng thẳng ngoại giao mà sự
thỏa hiệp có lợi nhiều cho chế độ Việt Nam, kể cả thông qua mong muốn
tham gia quân sự với quân sự, trong khi đồng thời làm suy yếu khả năng
kiểm soát bộ phận dân chúng bên dưới của họ.
Để có được kết quả, Washington phải chấp nhận thực tế là cải cách
nhân quyền không thể đến trước khi có cải cách chính trị tại Việt Nam.
Vì mục đích này, Mỹ nên tham gia vào một chiến dịch giao truyền thông
điệp, được thiết kế nhằm chính trị hóa và tổ chức công chúng Việt Nam
trong một cách thức được đảng Công sản chấp nhận. Vì những sáng kiến như
thế sẽ không tránh khỏi phê phán về ngoại giao, các nỗ lực nhằm thay
đổi Việt Nam không nên đến từ bên ngoài biên giới của đất nước. Thay vào
đó, sự thay đổi cần được thúc đẩy ở dáy tầng xã hội.
Bằng cách chuyển cuộc đấu tranh cải cách về quyền con người cho người
dân Việt Nam, Mỹ có thể duy trì một chính sách khá "rảnh tay" đối với
các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Mặc dù cuộc đấu tranh cho cải cách dân
chủ và quyền con người đã được nhiều cá nhân người Việt đấu tranh, nhưng
sự hỗ trợ ngầm của Mỹ đối với cuộc đấu tranh của người dân có thể mở
một con đường cuối cùng hướng tới cải cách thực sự.
Dù thành công hay thất bại, vẫn phải là cuộc chiến đấu của người dân.
Tuy nhiên vẫn có lý do để hy vọng cho sự thành công từ sự xuất hiện gần
đây của Thỉnh nguyện 72, vốn trong nhiều thỉnh nguyện khác, đã kêu gọi
chấm dứt chế độ độc đảng cai trị tại Việt Nam. Kiến nghị, dự thảo của
các học giả trong nước đã soạn thảo để đáp ứng với việc sửa chữa bản
hiến pháp hiện tại, được thực hiện bởi Đảng Cộng sản, với mục đích tăng
cường quyền hạn của chính phủ hơn nũa.
Thay vì can thiệp trực tiếp, Mỹ sẽ phục vụ hữu hiệu hơn trong việc
cho phép người dân Việt Nam tự vạch ra tiến trình riêng của họ đối với
cải cách, và khi làm như vậy, sẽ thiết lập được một số tín nhiệm cần
thiết. Mỹ nên kềm chế không tạo áp lực quá cứng rắn lên chính phủ Việt
Nam hiện tại, thay vào đó nên tập trung năng lục của mình hỗ trợ cuộc
đấu tranh của người dân thông qua hỗ trợ chính trị.
Về mục tiêu này, vấn đề dân chủ và quyền con người đã chiến đấu tốt
nhất thông qua việc phổ biến kiến thức. Mặc dù các nhà hoạt động đã
nói về sự cần thiết cho dân chủ tại Việt Nam, đối với những người sinh
ra và lớn lên ở một đất nước rõ ràng phi dân chủ , dân chủ vẫn chủ yếu
là một khái niệm xa lạ - khó tưởng tượng và thậm chí còn khó khăn hơn để
thực hiện.
Để giáo dục người dân Việt Nam tốt hơn về dân chủ, quyền con người và
các quy định của pháp luật, Mỹ có thể thiết lập một loại trung tâm học
tập tại Việt Nam, có lẽ với sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc và / hoặc các
tổ chức phi chính phủ, dành riêng cho các vấn đề tự do. Mỹ đã điều hành
một trung tâm tương tự như thế ở Myanmar trong thời quân phiệt cai trị
trước khi xảy ra các chuyển tiếp đến nên dân chủ bán dân sự gần đây của
nước này.
Washington cũng có thể cung cấp cho các cá nhân người Viêt có chọn
lọc được đi du lịch ra nước ngoài để tự mình chứng nghiệm dân chủ . Qua
việc cho phép các công dân Việt Nam chứng kiến việc được sống trong một
đất nước dân chủ, nơi chính phủ chịu trách nhiệm trước người dân, thực
sự có ý nghĩa như thế náo, họ sẽ được truyền cảm hứng để chiến đấu cho
những điều tương tự ở quê nhà. Thay vì một cách tiếp cận từ trên xuống
để ủng hộ cải cách, vốn cuối cùng sẽ đòi hỏi chính phủ Đảng Cộng sản
phải hành động trong niềm tin tốt, Mỹ nên tập trung nuôi trồng thế hệ
tiếp theo của các nhà lãnh đạo Việt Nam từ dưới lên...
Phe bảo thủ kháng cự
Chắc chắn, bất kỳ nỗ lực giới thiệu một trung tâm dân chủ như thế ở
Việt Nam sẽ phải đối mặt với kháng cự gay gắt từ các nhân tố bên trong
Đảng Cộng sản, những người lo sợ trung tâm ấy sẽ giúp vào việc làm suy
yếu vị thế và quyền lực của mình. Không nghi ngời gì rằng một loại trung
tâm liên kết với Mỹ như vậy cũng sẽ được một số người nhìn thấy như là
một nỗ lực của Mỹ để chen vào công việc nội bộ của Việt Nam và lật đổ
chính phủ. Khi Hoa Kỳ và Việt Nam mở rộng và làm sâu sắc hơn mối quan hệ
song phương, có những nhân tố bảo thủ trong đảng Cộng sản vẫn nghi ngờ ý
định của Mỹ.
Điều đó cho thấy rằng, quân đội của Việt Nam sẽ được hưởng lợi lớn từ
các mối quan hệ sâu sắc với Mỹ. Hợp tác quân sự với quân sự được nhiều
người coi là một bước đi hướng tới việc chia sẻ ý tưởng và bắc cầu hàn
gắn những chia rẽ trong quá khứ và hiện tại. Thực tế là cho đến nay việc
Mỹ vẫn từ chối xuất khẩu vũ khí gây chết người tại Việt Nam là một vấn
đề vượt ra ngoài khả năng nhận hiểu biết của một người quân nhân, thủy
thủ, phi công trung bình đang mong muốn được học hỏi và trao đổi với các
đối tác Mỹ của họ.
Chắc chắn công cuộc hiện đại hóa quân sự được Mỹ hỗ trợ của Việt Nam
sẽ được nhiều tướng lĩnh Việt Nam nồng nhiệt chào đón. Các nhà lãnh đạo
quân sự Việt Nam không còn lo lắng về sự xâm lược của Mỹ và thay vào đó
là tập trung vào cuộc xung đột tiềm tàng ở Biển Đông hoặc dọc theo biên
giới đất liền với Trung Quốc. Mặt khác, bộ máy an ninh nội bộ của Việt
Nam - vốn đang đàn áp bất đồng chính kiến trong nội bộ - có khả năng sẽ
ít có thể chấp nhận đề nghị của Washington.
Đối với Hoa Kỳ, trở nên ngày càng thân thiết với Việt Nam mà không bị
coi là áp chế hoặc lật đổ sẽ đòi hỏi một hành động cân bằng tinh tế. Có
lẽ Mỹ sẽ không dỡ bỏ hạn chế về xuất khẩu vũ khí giết người của mình
nếu Việt Nam không có bằng chứng rõ ràng về cải thiện quyền con người vì
sợ rằng các loại vũ khí ấy sẽ chỉa vào người dân Việt Nam chứ không
phải là để ngăn chặn Trung Quốc. Ngược lại, Việt Nam không có khả năng
thỏa hiệp nếu tin rằng Mỹ đang nỗ lực, trực tiếp hoặc gián tiếp, làm suy
yếu Đảng Cộng sản.
Trong việc ve vãn Việt Nam, Mỹ có thể chơi một canh bài ngắn hay dài.
Trong kịch bản ngắn, Mỹ sẽ thỏa hiệp về những giá trị cốt lõi như dân
chủ và quyền con người để nhanh chóng phát triển một đối tác chiến lược
nhằm cân bằng với Trung Quốc tại Hà Nội. Trong kịch bản đường dài, Mỹ sẽ
đầu tư vào người dân Việt Nam để một ngày giành lại quyền kiểm soát đất
nước của họ, nhìn về phía Mỹ như một ngọn hải đăng dân chủ không ở
Capitol Hill mà thông qua Thái Bình Dương.
Nguồn: Asia Times