Nguyễn Trung
Toàn bộ quá trình đưa Dự thảo Hiến pháp sửa đổi ra
thảo luận trong cả nước cho đến nay vẫn thiếu vắng hẳn những cuộc thảo
luận công khai, xây dựng theo tinh thần đoàn kết và hòa hợp dân tộc mọi ý
kiến khác nhau của các tầng lớp nhân dân. Thay vào đó là cách làm rất
hình thức, phô trương, vô cùng tốn kém.
Trên mọi phương tiện truyền thông của “lề phải” và trong không biết bao nhiêu cuộc nói chuyện ở cấp cơ sở khắp cả nước, các dư luận viên
liên tiếp một chiều các bài nói, bài viết, các phát ngôn.., nội dung
cùng một giọng điệu gần giống như được gỡ ra hoặc được “tua” lại từ các
băng ghi âm – nghĩa là giáo điều, không lý lẽ, áp đặt, không có sức
sống, na ná giống nhau…
Tham gia mặt trận độc thoại này của những dư luận viên có không ít cây lý luận
của các trường Đảng và cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng… Trong những
người này có các vị mang học hàm giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ..., đôi
ba người có cả quân hàm đại tá… Không cần phân tích, họ lớn tiếng phê
phán những ý kiến khác, những người nói khác với Dự thảo. Không thiếu
trường hợp ngôn ngữ của các dư luận viên này thật ra là sự đả kích như
mạt sát. Họ thẳng thừng quy kết những người nói khác là “thoái hóa về đạo đức chính trị, tư tưởng”, xếp những người nói khác như thế vào loại “các thế lực thù địch chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa và chống phá Đảng…”
Để làm chỗ dựa cho những lời phê phán kiểu độc thoại như thế, một số cây lý luận đã viện dẫn lịch sử, đại ý:
Các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô Đông Âu cũ sở dĩ sụp đổ là vì đã phạm phải 3 sai lầm chết người: (1) phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin, (2) xóa vai trò lãnh đạo của Đảng, (3) phi chính trị hóa các lực lượng vũ trang…
Lập luận như thế trong thảo luận xây dựng hiến pháp mới, thật chẳng khác vừa cảnh cáo, vừa hù dọa.
Vậy sự thật là thế nào?
Nói khái quát, sự thật là chủ nghĩa Mác - Lênin, diễn đạt đầy đủ hơn
là mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước LXĐÂ cũ, đã bắt đầu khủng
hoảng mang tính hệ thống từ những năm 1960. Vào lúc nổ ra phong trào
Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan trong những năm của thập kỷ 1980, tất cả các
nước LXĐÂ đã đi vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Cao điểm của thời
kỳ khủng hoảng này xảy ra vào cuối thập kỷ 1980 và đã dẫn tới sụp đổ của
toàn hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa LXĐÂ, trong đó Liên Xô là nước
sụp đổ sau cùng (ngày 25-12-1991).
Nhìn lại, lịch sử khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa LXĐÂ
thật ra bắt đầu sớm hơn nhiều. Sớm nhất là cuộc nổi dậy của công nhân
xây dựng ở Đông Berlin, rồi lan ra toàn Cộng Hòa Dân Chủ Đức tháng
6-1953. Lãnh đạo Cộng Hòa Dân Chủ Đức hồi ấy phải nhờ quân đội Liên Xô
đập tan.
Kế tiếp là cuộc nổi dậy đẫm máu ở Hungari tháng 10-1956, bắt đầu từ phong trào sinh viên chống lại nhà nước stalinist, sau đó là sự tham gia của nhân dân cả nước. Quân đội Liên Xô phải trực tiếp can thiệp, đến tháng 1-1957 mới dập tắt được.
“Mùa xuân Phaha 1968” là cuộc nổi dậy tiếp theo ở Tiệp Khắc,
lập ra chính quyền chống lại mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, tồn tại
được 8 tháng (từ tháng 1 đến tháng 8-1968), quân đội khối Varsovie do
quân Liên Xô là chủ lực phải kéo vào dẹp bỏ.
“Phong trào Công đoàn đoàn kết” ở Ba Lan (tên đầy đủ: Phong trào Công đoàn Độc lập Tự trị "Đoàn kết"),
bắt đầu từ tháng 8-1980. Với mọi bước đi thăng trầm quyết liệt, phong
trào này giành được thắng lợi quyết định trong cuộc bầu cử ngày
04-06-1989, kết thúc mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa tại đây. Từ tháng
12-1990 Balan đi vào thể chế dân chủ hiện nay.
Nguyên nhân sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ không phải là các đảng cộng sản cầm quyền ở những quốc gia này đã phạm phải 3 sai lầm chết người như đã được giảng giải trên mọi diễn đàn “lề phải”.
Có thể đánh giá các đảng cộng sản cầm quyền tại các nước LXĐÂ cũ hồi
ấy đã làm tất cả để đối phó với khủng hoảng, nhưng không chống đỡ nổi
sự sụp đổ. Đơn giản là họ bị các lực lượng dân chủ của nhân dân nước
mình đánh bại; mặc dù vào thời điểm sụp đổ, hiến pháp và điều lệ các
đảng cộng sản cầm quyền ở những nước này vẫn còn quyên vẹn. Giả thử các
đảng này lúc ấy được ai cố vấn và muốn cố thực hiện “3 sai lầm chết người” này để cứu vãn tình hình – như các cây lý luận của mặt trận dư luận viên
biện bạch, chắc cũng không kịp. Đơn giản là hệ thống chế độ chính trị
cũ của những nước này cuối cùng đã bị phong trào dân chủ của nhân dân
nước họ thay thế nhanh quá, bằng những biện pháp hòa bình.
Riêng tại Rumani, chế độ độc đảng toàn trị diễn ra khắc nghiệt nhất
so với các nước LXĐÂ khác. Tổng bí thư Nicolae Ceausescu sớm theo đuổi
đường lối thân phương Tây và Trung Quốc, chống Liên Xô, ngay giữa lúc
phe xã hội chủ nghĩa còn đang mạnh. Ông ta cũng là người trực tiếp chỉ
huy quân đội. Nhưng tại đây chế độ chính trị của ông ta đã bị thay thế
bằng bạo lực, quân đội lại là người trực tiếp kết liễu vợ chồng ông ta.
Nói thêm về Liên Xô
Khói súng của Chiến hạm Rạng Đông chưa tắt, nước Nga của Cách mạng tháng Mười đã sớm rơi vào cuộc nội chiến khắc nghiệt và đẫm máu (1917-1922). Nói khái quát, giữa một bên là cách mạng và một bên là phản cách mạng.
Khói súng của Chiến hạm Rạng Đông chưa tắt, nước Nga của Cách mạng tháng Mười đã sớm rơi vào cuộc nội chiến khắc nghiệt và đẫm máu (1917-1922). Nói khái quát, giữa một bên là cách mạng và một bên là phản cách mạng.
Chẳng những thế, từ năm 1918 đến năm 1920, trên đất nước Liên Xô còn
xảy ra cuộc chiến tranh can thiệp của các nước tư bản, đi đầu là các
cường quốc Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nhật. Những nước này cùng với các lực
lượng phản cách mạng ở LX quyết tâm tiêu diệt bằng được nhà nước cộng
sản đầu tiên trên thế giới.
Cuối cùng Liên Xô đã đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp này và dập
tắt nội chiến. Chẳng những thế, Liên Xô sau này còn là lực lượng chủ
chốt nhất đánh bại phát xít Đức và phát xít Nhật trong chiến tranh thế
giới II, góp phần quyết định tạo ra sự hình thành phe xã hội chủ nghĩa làm chủ 1/3 địa cầu, sau đó kiềm chế phe đế quốc ngót nửa thế kỷ (xin được dùng khái niệm “phe” theo ngôn ngữ thời ấy – N.T.).
Đáng lưu ý: Ngày nay, dưới chính thể mới của Liên bang Nga, quân đội
Liên bang Nga vẫn kế tục truyền thống hào hùng của Hồng quân Liên Xô,
mặc dù quân đội đã hoàn toàn đứng ngoài cuộc chính biến 1990-1991 xóa bỏ
nhà nước xô-viết.
Hiển nhiên không thể không đặt ra câu hỏi: Tại sao Liên Xô sụp đổ ở
lúc đạt đỉnh cao mọi mặt của chính quyền và sức mạnh xô-viết? Sụp đổ
không nội chiến, không có lấy một phát súng can thiệp từ bên ngoài? Sụp
đổ nhanh tới mức toàn bộ thế giới phương Tây ngỡ ngàng, toàn bộ mạng
lưới tình báo phương Tây chết khựng vì bất ngờ! Sụp đổ ở đỉnh cao của
một cường quốc và trong nguyên vẹn sự tồn tại của Đảng Cộng Sản Liên Xô
và Hồng quân Liên Xô!?...
Chỉ xin điểm lại một số sự việc có liên quan đến hiến pháp:
Toàn bộ lịch sử Liên Xô có 4 hiến pháp. Hiến pháp năm 1977 (còn gọi
là Hiến pháp Brejnev) là hiến pháp đầu tiên có riêng một điều nói cao
hơn rất nhiều so với cả 3 hiến pháp trước đó (các Hiến pháp năm 1918,
1924 và 1936) về ĐCSLX và về chế độ xô-viết – đấy là điều 6. Hiến pháp
Brejnev là hiến pháp cuối cùng khi Liên Xô sụp đổ.
Thời Brejnev là thời kỳ Liên Xô lâm vào đình đốn và trì trệ toàn
diện. Để cứu vãn tình hình này, khi được bầu làm Tổng bí thư ĐCSLX, ông
Gorbachov đề xướng đổi mới kinh tế và dân chủ hóa hệ thống nhà nước,
cũng giống như những công việc đổi mới được đề xướng ở nước ta bây giờ.
Nhưng ông ta thất bại.
Tuy nhiên không thấy Gorbachov đề ra việc sửa đổi hiến pháp. Hay là
ông ta chưa kịp làm việc này?.. Chỉ biết rằng tháng 1-1991 ông ta vẫn
còn vận dụng Hiến pháp xô-viết 1977 (Hiến pháp Brejnev) chống lại việc
ly khai của nước Cộng hòa Lít-va… Không lâu trước khi thất sủng,
Gorbachov muốn đưa ĐCSLX đi theo con đường xã hội dân chủ. Nhưng ông ta
chưa kịp làm gì, thì ĐCSLX tan rã. Vì đảng đã bị tổng thống Yeltsin
thông qua Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga đặt ra ngoài vòng pháp luật…
Nhìn thẳng vào sự thật
Tới đây mọi người có thể thấy: Không có chuyện xẩy ra “3 sai lầm chết người”
trong việc sửa đổi hiến pháp tại các nước LXĐÂ với hệ quả dẫn tới sự
sụp đổ chế độ XHCN ở những quốc gia này. Thậm chí tại những nước xã hội
chủ nghĩa này không có cả việc sửa đổi hiến pháp trong những thập niên
cuối cùng trước khi sụp đổ.
Cũng không có chuyện các đảng cộng sản cầm quyền ở đấy đã phạm phải 3 sai lầm chết người này trong những nỗ lực cứu vãn tình hình, có lẽ đơn giản vì họ không đủ thời giờ để kịp đề ra và thực hiện 3 sai lầm này. Song có sự thật rành rành là các đảng này đã bị các lực lượng dân chủ trong nhân dân nước mình đánh bại.
Ngoài ra còn có một sự thật nữa rất quan trọng: Vô luận hiến pháp và
điều lệ đảng đang có hiệu lực hồi đó ở những nước này được viết như thế
nào, quân đội của những nước này đi với nhân dân và chỉ trung thành với
tổ quốc. Nhờ vậy đã không xảy ra tắm máu khi chế độ xã hội chủ nghĩa bị
chính thể dân chủ thay thế.
Vậy phải đi tìm những nguyên nhân thực đã dẫn tới sự sụp đổ chế độ
XHCN ở các nước LXĐÂ, song đấy không phải là mục đích của bài viết này.
Bài này chỉ lưu ý: Dư luận viên không biết lấy ở đâu
ra, hay là tự đặt ra những điều không có thật như thế để tác động vào
nhân dân trong bàn thảo về sửa đổi hiến pháp lần này là việc làm với
dụng ý sai trái. Làm như thế, chỉ tự bộc lộ cái dở, cái yếu của đội ngũ
dư luận viên và chế độ, chỉ là tự phơi bầy cái thấp kém của đảng cầm
quyền. Đấy lại càng không thể là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ, củng cố
sự tồn tại của chế độ.
Nếu sự sụp đổ của các nước LXĐÂ có điều gì khác nữa đáng liên hệ với
nước ta, phải chăng đó là: Quyền lực dù hà khắc đến đâu, dù được bảo hộ
bằng cách nào, nhưng một khi đã mất dân thì mất tất cả.
Đứng trước những mối nguy và thách thức mất còn đang hiện hữu của
đất nước, với tính cách là một lực lượng chính trị lớn nhất và mạnh nhất
trong cả nước, tại sao ĐCSVN không coi việc sửa đổi hiến pháp lần này
là một cơ hội giương cao ngọn cờ dân chủ và hòa hợp hòa giải dân tộc
để phát huy sức mạnh cả nước, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất
nước? Một sự nghiệp như thế không đáng để cho ĐCSVN dấn thân cùng với
toàn thể dân tộc thực hiện? Lợi ích nào, hay yếu kém nào khiến ĐCSVN
không lựa chọn như thế?...
Có nghĩa vụ và trách nhiệm ràng buộc đối với đất nước cũng như đối
với sự tồn vong của chính mình, ĐCSVN phải đặt ra cho mình những câu hỏi
nêu trên. Những gì đã và đang diễn ra trong những hoạt động vận động dư
luận về sửa đổi hiến pháp hiện nay chỉ cho thấy: Đảng đang tìm mọi cách
khư khư nắm giữ quyền lực của mình. Thật ra Đảng đang tự vứt bỏ vai trò
lãnh đạo của mình, chẳng thế lực diễn biến hòa bình nào bên ngoài Đảng
có thể làm nổi việc này.
Nếu tự hỏi mình được như thế, ĐCSVN sẽ tự trả lời được cho mình Làm gì? Làm như thế nào?
Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị của đất nước là mặt yếu nhất của ĐCSVN, yếu đến mức hầu như là Đảng không thể! Cầm quyền đã 38 năm rồi mà vẫn không làm nổi, hoặc không có ý thức để làm!… Thậm chí Đảng đang muốn làm ngược lại!?...
Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị của đất nước là mặt yếu nhất của ĐCSVN, yếu đến mức hầu như là Đảng không thể! Cầm quyền đã 38 năm rồi mà vẫn không làm nổi, hoặc không có ý thức để làm!… Thậm chí Đảng đang muốn làm ngược lại!?...
Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị chẳng những là đòi hỏi
phát triển của đất nước, mà còn là con đường dẫn Đảng đi với dân tộc, đi
với đất nước, sau khi đất nước đã giành được độc lập thống nhất. Đó là
con đường tránh được cho đất nước thảm họa nồi da xáo thịt ở phía trước.
Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị theo hướng dân chủ và hòa hợp hòa giải dân tộc,
Việt Nam sẽ trở thành một nước phát triển, sẽ không phải hổ thẹn với
chính mình, và sẽ chiếm được trái tim của cả thế giới tiến bộ. Đã đến
lúc toàn thể dân tộc ta phải vượt lên mọi yếu kém của chính mình, quyết
khép lại quá khứ, để cùng nhau phấn đấu cho mục tiêu đáng sống này!
Sửa đổi hiến pháp lần này đang mang lại cho đất nước một cơ hội như
thế. Đây là cơ hội chiến lược thứ tư cho phép đổi đời đất nước kể từ khi
giành được độc lập thống nhất. Vẫn còn thời gian, chỉ cần có cách làm
đúng, để có thể xây dựng được một hiến pháp nước ta phải có, làm nền
tảng cho nhân dân ta phấn đấu vì tự do hạnh phúc của chính mình và thay
đổi được thân phận của đất nước trong thế giới ngày nay.
Ba cơ hội chiến lược trước đó của đất nước ĐCSVN đã để vuột mất./.
Nguyễn Trung
Võng Thị, ngày 16-05-2013
Võng Thị, ngày 16-05-2013
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 16-5-13