Để trở thành "cường quốc đại dương" trước tiên Trung Quốc phải trở thành bá chủ Biển Đông.
Muốn bá chủ Biển Đông, phải nhổ cái gai Việt Nam.
Đánh Việt Nam để độc chiếm Biển Đông có lẽ không còn là chuyện phải bàn cãi nhiều nữa đối với các nhà lãnh đạo Trung Cộng.
Vấn đề là đánh thế nào?
Đánh bằng sức mạnh quân sự không khó, song sẽ gây ra những hậu quả khó lường có nguy cơ cực xấu tới sự ổn định của Trung Quốc.
Đánh Việt Nam bằng sức mạnh quân sự là hạ sách.
Vừa được tiếng là quốc gia có trách nhiệm với cộng đồng thế giới, yêu chuộng và gìn giữ hòa bình.
Vừa vô hiệu hóa được cái gai Việt Nam, nuốt trọn Biển Đông mà không cần tới sức mạnh quân sự.
"Sâu" chiếm vai trò quan trọng, cực kỳ quan trọng trong sách lược này.
Nuôi "Sâu", vỗ béo "Sâu" rồi hà hơi tiếp sức cho "Sâu" leo cao, luồn sâu mới là thượng sách!
**********
Mục tiêu của các nhà lãnh đạo Trung Cộng ngày nay về tranh chấp
trên Biển Đông đã quá rõ và càng được khẳng định mạnh mẽ ngay trước,
trong và sau Đại hội Đảng CS Trung Quốc lần thứ 18.
Tân Tổng bí thư Tập Cận Bình, đã chọn cho mình những lời phát biểu
đầy ẩn ý ngay sau khi nắm giữ quyền lực tối cao khi ông đến tham dự một
cuộc triển lãm tại Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc có chủ đề “Con đường của
sự phục hưng”. Ông Tập nói: “Ai cũng nói về giấc mơ Trung Hoa. Tôi tin
rằng sự phục hưng của tinh thần dân tộc Trung Quốc là giấc mơ lớn nhất
của đất nước trong thời buổi hiện tại”.
Cơ sở hình thành nên “Giấc mơ Trung Hoa của Tập Cận Bình” thật ra
cũng chẳng có gì khó hiểu. Chính Đảng Cộng sản đã tái sinh ra một Trung
Quốc sau hàng loạt sự kiện “nhục nhã” đối với đất nước này trong thế kỷ
XIX. Nhưng những sự trượt đà bi thảm trong lịch sử của chế độ như chủ
trương Đại nhảy vọt, Cách mạng Văn hóa, hay vụ thảm sát Thiên An Môn lại
bị che dấu. Trung Quốc ngày nay, sau nhiều thập kỷ phát triển kinh tế
một cách “thần kỳ” đang đối mặt với nhiều khó khăn thách thức nội tại
nghiêm trọng. Tinh thần dân tộc được các nhà lãnh đạo Trung Cộng xem như
là liều "doping" tốt nhất cho chế độ để giữ vững sự tộc tôn chính trị
và lợi ích của giới lãnh đạo. Mặc cho nhân dân tiếp tục bị che dấu và bị
lừa dối bởi những thành quả kinh tế cũng như kỳ vọng về sự thỏa mãn
lòng tự ái, tự tôn dân tộc một cách quá đáng.
Sự tôn vinh tinh thần dân tộc do đó được nâng lên đến mức tối đa.
Tư tưởng này được biểu hiện qua việc sao chụp lại một tấm hình lớn mô tả
quang cảnh vào thời xa xưa, sứ thần từ các nước lân cận đến dâng cống
nạp lên hoàng đế Trung Hoa được trưng bày tại triển lãm. Bà Valérie
Niquet, chuyên gia về địa chính trị - sau khi đi xem triễn lãm đã đưa ra
nhận xét: “Khái niệm phục hưng tinh thần dân tộc Trung Hoa phải được
hiểu qua ý tưởng là Trung Quốc phải lấy lại vị thế mà họ đáng được có
tại châu Á, rằng Trung Quốc là một cường quốc rộng lượng, sẽ dang tay
bảo vệ các quốc gia còn lại trong châu Á và rằng thế giới, nhất là Hoa
Kỳ phải chấp nhận ý tưởng này”.
Quá trình chuyển giao quyền lực tối cao tại Trung Quốc đã được diễn
ra liên tục và mang tính kế thừa sâu đậm. Báo cáo chính trị do Tổng bí
thư mãn nhiệm Hồ Cẩm Đào đọc tại Đại hội 18 tiếp tục khẳng định tuyên bố
chủ quyền tại các vùng biển tranh chấp khi nói: “Chúng ta nên tăng
cường khả năng khai thác các nguồn tài nguyên biển, kiên quyết bảo vệ
các quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc, đồng thời xây dựng Trung
Quốc trở thành một cường quốc biển”.
Việc Trung Quốc khẳng định phấn đấu trở thành “cường quốc biển” đã
được nói nhiều từ cuối những năm 1980, nay đã thành quốc sách hàng đầu
của Trung Quốc, được xem như là “lợi ích cốt lõi” của quốc gia. Báo cáo
chính trị Đại hội 18 do ông Hồ Cẩm Đào trình bày còn nhấn mạnh Trung
Quốc cần xây dựng “một lực lượng quốc phòng mạnh mẽ và các lực lượng vũ
trang hùng mạnh. Điều đó phù hợp với vị thế quốc tế của Trung Quốc”. Ông
Hồ Cẩm Đào cũng kêu gọi Trung Quốc đặc biệt tăng cường các khả năng kỹ
thuật công nghệ quân sự, đồng thời nhấn mạnh rằng nhiệm vụ quan trọng
nhất của quân đội Trung Quốc là đủ khả năng “chiến thắng một cuộc chiến
tranh cục bộ trong thời đại thông tin”. Điều này cho thấy, chủ trương
“ngoại giao xung quanh” chỉ được nêu ở một vị trí thấp. Thông điệp về
đối thoại hợp tác và đàm phán hoà bình tỏ ra bị mờ nhạt bởi bức thông
điệp nói về sức mạnh.
Cần biết là kể từ năm 2011, khi còn là Phó chủ tịch nước, ông Tập Cận Bình được giao chuyên trách cơ quan phối hợp chính sách về các vấn đề có liên quan đến Biển Đông. Và đường lối cứng rắn này chắc chắn sẽ không được từ bỏ khi ông Tập trở thành nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Cộng. Bằng chứng là vào cuối tháng 11 vừa qua, chính quyền đảo Hải Nam ban hành các quy định cho phép lực lượng tuần duyên của họ được quyền khám xét và trục xuất các tàu thuyền qua lại trong vùng Biển Đông rộng lớn mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền phi lý. Đầu tháng 12 này, cãi vã lại nổ ra giữa Bắc Kinh và Hà Nội, sau vụ việc các đoàn tàu đánh cá Trung Quốc thêm một lần nữa cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.
Cần biết là kể từ năm 2011, khi còn là Phó chủ tịch nước, ông Tập Cận Bình được giao chuyên trách cơ quan phối hợp chính sách về các vấn đề có liên quan đến Biển Đông. Và đường lối cứng rắn này chắc chắn sẽ không được từ bỏ khi ông Tập trở thành nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Cộng. Bằng chứng là vào cuối tháng 11 vừa qua, chính quyền đảo Hải Nam ban hành các quy định cho phép lực lượng tuần duyên của họ được quyền khám xét và trục xuất các tàu thuyền qua lại trong vùng Biển Đông rộng lớn mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền phi lý. Đầu tháng 12 này, cãi vã lại nổ ra giữa Bắc Kinh và Hà Nội, sau vụ việc các đoàn tàu đánh cá Trung Quốc thêm một lần nữa cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.
Truyền thông Trung Quốc suốt mấy tháng qua cũng dồn dập đưa tin và
hình ảnh về việc quân đội nước này tập trận bắn đạn thật dưới nhiều kịch
bản giả định khác nhau: hải chiến, tấn công đổ bộ chiếm đảo... Mới đây
(5-12-2012), quân đội Trung Quốc ngang nhiên tổ chức cuộc thi đấu bắn
súng tại quần đảo Hoàng Sa của ViệtNam. Minh họa cho cuộc thi này, tờ
Hoàn Cầu Thời báo đăng tải một số mô tả như: binh sĩ ngắm bắn, trườn qua
lưới thép gai, vượt qua các hàng rào thép gai đang bốc cháy...
Ngoài ra, Tân Hoa xã cũng đồng thời đưa tin 4 chiến hạm Trung Quốc
diễn tập hỗ trợ ứng cứu tàu công vụ “dân sự” đang đối đầu với tàu chiến
nước ngoài trên Biển Đông. Động thái trên diễn ra chẳng bao lâu sau khi
chính quyền tỉnh Hải Nam đề xuất cho phép cảnh sát biển kiểm tra, bắt
giữ, phá hủy tài sản nước ngoài ở vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ
quyền bao chiếm 80% Biển Đông bởi “đường lưỡi bò” phi lý. Đề xuất này
được xem như mở rộng vùng tuần tra ra gần khắp Biển Đông một cách phi
pháp, vi phạm Công ước LHQ về luật Biển (UNCLOS) 1982. Vì thế, việc diễn
tập của 4 chiến hạm trên cho thấy hải quân Trung Quốc tỏ ý sẵn sàng hỗ
trợ các tàu công vụ “dân sự”, bao gồm cả tàu cảnh sát biển. Đây là một
động thái rất đáng quan ngại và nguy hiểm của Trung Quốc khiến tình hình
Biển Đông thêm phức tạp.
Tuy nhiên, đôi khi sự hung hăng bộc lộ ra bên ngoài lại chỉ để che dấu những mưu đồ thâm độc và nguy hiểm hơn đang được âm thầm triển khai dưới bóng tối của những bức màn che kín hay sặc sở sắc màu cố tình làm lạc hướng dư luận.
Tuy nhiên, đôi khi sự hung hăng bộc lộ ra bên ngoài lại chỉ để che dấu những mưu đồ thâm độc và nguy hiểm hơn đang được âm thầm triển khai dưới bóng tối của những bức màn che kín hay sặc sở sắc màu cố tình làm lạc hướng dư luận.
Trong suốt chiều dài hàng ngàn năm của lịch sử Việt Nam, kể từ khi
trở thành một quốc gia độc lập, tự chủ các nhà lãnh đạo Việt Nam trong
mọi thời kỳ hầu như chưa bao giờ mơ hồ về hiểm họa xâm lăng đến từ
phương Bắc. Tùy hoàn cảnh, thời điểm, tương quan lực lượng cũng như thái
độ của đối phương mà các nhà nước Việt Nam trong lịch sử đều có sự
chuẩn bị tương ứng để đối phó với hiểm họa này. Cũng tùy vào các vấn đề
nội bộ của quốc gia dân tộc mà người Việt Nam khi thì đối phó hữu hiệu,
lúc thì thất bại tạm thời trước hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc. Song
tinh thần cảnh giác và quyết tâm bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, độc lập và
tự chủ là không bao giờ thay đổi. Tất nhiên trong nồi canh đôi khi cũng
có những con sâu. Đó là những kẻ bán nước cầu vinh cam tâm làm tay sai,
khiếp sợ và đầu hàng giặc từ trong tư tưởng. Thời nào cũng có những
loại sâu này. Tuy nhiên cũng tùy thời mà loại sâu này có nhiều hay ít,
chiếm thế thượng phong hay chỉ là một phần cặn bã, không gây hại được gì
cho vận mệnh của quốc gia dân tộc.
Ngay từ những ngày xa xưa trong lịch sử, kẻ xâm lược cũng đã nhìn
thấy điều này và đã ra sức lợi dụng, sử dụng những con sâu loại này để
nhanh chóng thực hiện mưu đồ xâm lược nước ta một cách nhẹ nhàng, ít hao
tổn nhất. Ngày nay, những bậc hậu sinh của kẻ xâm lược cũng mưu mô
không kém và chắc rằng cũng không quên thủ đoạn lợi dụng bầy sâu
nước Nam để thôn tính nước Nam như tổ tiên họ từng làm.
Trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông ngày càng gay gắt và ý đồ
thôn tính Biển Đông, vươn ra trờ thành “cường quốc đại dương” của Trung
Quốc được giới lãnh đạo chóp bu của nước này thừa nhận công khai câu hỏi
mà rất nhiều người đang đặt ra là “liệu có khả năng xảy ra một cuộc
chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông hay không?”.
Tất nhiên, khả năng để xảy ra một cuộc chiến giữa hai quốc gia
“láng giềng tốt, đồng chí tốt”... chỉ bùng nổ khi Trung Quốc tấn công và
Việt Nam buộc phải tự vệ. Về mặt lý thuyết và trên phương diện chính
trị - ngoại giao hiện nay lãnh đạo của cả hai nước đều đang cố gắng
tránh các cuộc xung đột có khả năng dẫn tới chiến tranh và luôn đề cao
nguyên tắc đàm phán, thương lượng hòa bình các vấn đề tranh chấp.
Tuy nhiên, điểm khác nhau của các bên trong trò chơi đàm phán hòa
bình này là một bên cố tình áp đặt luật chơi theo kiểu có lợi cho mình
mà không tính tới thiệt hại cho đối tác. Đồng thời với việc kẻ mạnh luôn
phô trương việc tăng cường sức mạnh quân sự ngày càng vượt trội và sẵn
sàng chiến đấu. Đó là điểm khác biệt cốt lõi tất yếu sẽ dẫn tới bế tắc
và xung đột trước hết trên bàn đàm phán. Không thể có sự đàm phán và
thương lượng hòa bình khi một bên cứ lấn lượt, đòi hỏi hầu hết lợi ích
cho mình còn bên kia thì liên tục nhẫn nhịn, chấp nhận lùi dần hết bước
này tới bước khác cho tới khi có nguy cơ mất trắng.
Nếu các nhà lãnh đạo của quốc gia thế yếu cứ chấp nhận chuyện lùi
dần dẫn tới nguy cơ mất trắng thì chính nhân dân của quốc gia đó cũng sẽ
không chấp nhận cách hành xử này của các nhà lãnh đạo. Một nhà nước
liên tiếp chấp nhận thua thiệt và để mất lãnh thổ, không bảo vệ được đất
đai, biển cả xương máu của cha ông, làm co hẹp nguồn sống của dân tộc
thì đương nhiên nhà nước đó sẽ mất dần sự chính danh đối với nhân dân
của họ và các nhà lãnh đạo có tội với lịch sử của dân tộc đó.
Trở lại chuyện Trung Quốc cả khả năng tấn công Việt Nam để tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược trên Biển Đông hay không?
Câu trả lời là rất có thể.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hưng Quốc phân tích: “Trung Quốc đang muốn
làm bá chủ trên mặt biển, ít nhất trong khu vực châu Á, để bảo vệ các
tuyến đường hàng hải liên quan đến nền kinh tế đang phát triển của họ.
Hơn nữa, họ cũng muốn phô trương thanh thế và quyền lực với thế giới. Để
đạt được hai mục tiêu ấy, Trung Quốc có ba đối tượng
chính: Nhật, Philippines và Việt Nam. Lâu nay, dư luận thế giới tập
trung nhiều nhất vào các tranh chấp giữa Trung Quốc với hai nước Nhật
và Philippines. Có lúc ngỡ như chiến tranh giữa họ sẽ bùng nổ.
Nhưng thật ra, đó chỉ là những mặt trận giả. Rất ít có khả năng
Trung Quốc tấn công Nhật hay Philippines. Có ba lý do chính: Một, các
vùng tranh chấp giữa họ với nhau không có ý nghĩa chiến lược lớn. Đó là
những hòn đảo nhỏ không có vai trò lớn trên bàn cờ địa-chính trị. Hai,
cả hai đều là những đồng minh thân cận của Mỹ; riêng Nhật, tự bản thân
nó, đã là một cường quốc, không dễ gì Trung Quốc chế ngự được. Và ba, vì
hai lý do ấy, tấn công Nhật hay Philippines, với Trung Quốc, là một
quyết định đầy rủi ro.
Để đạt hai mục tiêu chiến lược nêu trên, Việt Nam là một đối tượng
dễ dàng nhất đối với Trung Quốc. Vùng tranh chấp giữa Việt Nam và Trung
Quốc có ý nghĩa chiến lược lớn: không những chỉ là các hòn đảo mà còn cả
một vùng biển mênh mông đồng thời cũng là một con đường hàng hải mang
tính chiến lược không những trong khu vực mà còn cả trên thế giới. Hơn
nữa, Việt Nam lại là một nước yếu, và, quan trọng nhất, hầu như hoàn
toàn bị cô lập. Việt Nam không có đồng minh thực sự. Sẽ không có nước
nào nhảy ra giúp Việt Namtrong cuộc đối đầu quân sự với Trung Quốc cả.
Chấp nhận đánh nhau với Nhật hay Philippines là chấp nhận đánh nhau với
Mỹ. Đánh Việt Nam thì chỉ đánh một nước. Không những vậy, với sự trở cờ
của Campuchia, đó là một nước bị Trung Quốc bao vây, từ đất liền cũng
như từ biển cả”.
Tuy nhiên, ông Quốc nhấn mạnh: “Từ những tính toán như vậy đến một
quyết định tấn công thực sự không phải là điều dễ dàng. Có vô số khó
khăn và bất trắc cho Trung Quốc. Một là, chính quyền Việt Nam có thể hèn
nhưng dân chúng Việt Nam lại không hèn. Đánh Việt Nam, Trung Quốc phải
chấp nhận một cuộc chiến tranh lâu dài, không biết bao giờ mới kết thúc.
Hai là, đánh Việt Nam, Trung Quốc không phải trực tiếp đương đầu với Mỹ
nhưng lại đương đầu với cả thế giới: Trung Quốc hiện ra như một hung
thần, một sự đe dọa. Mà Trung Quốc thì lại chưa thể, và có lẽ, cũng chưa
muốn xuất hiện với tư cách ấy. Họ chưa đủ mạnh để làm điều đó. Họ đang
cần mua chuộc tình cảm của thế giới. Để cạnh tranh với Mỹ, họ ở trong
thế lưỡng nan: một mặt, họ phải chứng tỏ sức mạnh; mặt khác, họ phải
chứng tỏ có một bảng giá trị nhân văn và nhân đạo để được mọi người chấp
nhận. Chứ không phải như một thế lực man rợ”.
Hơn nữa, theo các nhà phân tích quốc tế, bản thân Trung Quốc cũng
đang có rất nhiều vấn đề nội bộ của họ. Một cuộc chiến kéo dài và tốn
kém, gây tai tiếng sẽ là môt cơ họi tốt, một môi trường thích hợp cho
các vấn đề nội bộ âm ỉ lâu nay trở nên bùng phát dữ dội. Đó là điều mà
các nhà lãnh đạo Trung Cộng không bao giờ muốn.
Do vậy, mặc dù Trung Quốc không ít lần đe dọa về khả năng sẽ tiếp
tục “dạy cho Việt Nam một bài học” bằng sức mạnh quân sự như tờ Thời báo
Hoàn cầu vẫn luôn ra rã. Nếu Việt Nam không chấp nhận các “luật chơi”
trên bàn đàm phán song phương với nước này và lựa chọn con đường đa
phương hóa Biển Đông, bắt tay với Hoa Kỳ cũng như với nhiều quốc gia
khác trong việc khai thác tài nguyên trên Biển Đông. Song, khả năng
Trung Quốc thật sự tấn công Việt Nam, mở ra một cuộc chiến tranh xâm
lược chỉ là 50-50 (năm ăn năm thua). Tỷ lệ này cho thấy các tính toán
của Trung Quốc dẫn tới một điều là họ không hy vọng sẽ có kết quả mỹ mãn
trong việc mở màn một cuộc chiến xâm lược Việt Nam để giải quyết các
tranh chấp trên Biển Đông.
Phương án tốt nhất vẫn là đàm phán song phương, hòa bình trên cửa
miệng nhưng luôn ẩn chứa sự răn đe, trừng trị nếu đối tác không chấp
nhận luật chơi được áp đặt bởi nước lớn có binh hùng tướng mạnh đang mai
phục sẵn sàng. Phương thức này thuận lợi cho việc chìa ra “củ cà rốt”
rồi nắm chặt lấy những con sâu bự nằm trong giới chóp bu quyền hành của
quốc gia đối tác mà về lâu dài sẽ biến đối tác trở thành kẻ lệ thuộc,
khiếp nhược và ngoan ngoãn. Sách lược này trong binh pháp người Trung
Hoa gọi là “bất chiến tự nhiên thành”.
Giới lãnh đạo Trung Quốc ngày nay sẽ không dại gì gây chiến với một
quốc gia như Việt Nam một khi họ có thể nắm trong tay số phận của nhiều
con sâu bự đã thòi ra ngoạm lấy "củ cà rốt Trung Hoa"; một khi họ có
khả năng điều khiển được ý chí của nhà nước láng giềng như những con rối
bằng phương thức tương tự trong các bộ phim khoa học viễn tưởng về các
cuộc chiến trong vũ trụ là thả những con sâu vào trong bộ não của đối
phương rồi sai khiến chú sâu đó thực hiện các hành vi theo ý muốn của
chủ nhân lũ sâu này.
Đáng buồn là lũ sâu này quên rằng một khi vật chủ mà chúng đang ra
sức điều khiển theo lệnh của chủ nhân chết đi thì giá trị sử dụng của
bầy sâu sẽ không còn nữa
Nguồn Blog Hữu Nguyên