Tiến sĩ Đinh Xuân Quân
Quyển sách 'Bên Thắng Cuộc' của Huy Đức đã, đang và sẽ tạo nhiều tranh luận cho người đọc trong và ngoài nước. Hiện nay quyển sách này mới chỉ có thể mua trên Amazon (phiên bản tin học). Cuốn 1, có tên là Giải Phóng, gồm 2 phần và 11 chương:
Phần I:
Chương 1: Ba Mươi Tháng Tư - Miền Nam - Đi từ bưng biền - Xuân Lộc -
Tướng Big Minh - Trại Davis - Nguyễn Hữu Hạnh - Sài Gòn trong vòng vây -
Xe tăng 390 - Đầu hàng - Tuẫn tiết; Chương 2: Cải tạo Những ngày đầu
“Ngụy Quyền” - “Ngụy Quân” - “Đoàn tụ” - “Phản động” - Tù và cải tạo -
“Thăm Nuôi” - “Học Tập”; Chương 3: Đánh tư sản “Chiến dịch X-2” - Đổi
tiền - “Gian thương” - “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh” Hai gia
đình tư sản - Kinh tế mới; Chương 4: Nạn Kiều Đội quân thứ năm Hiệp
định Geneva “Chổi ngắn không quét xa” - Hoàng Sa - Sợ “con ngựa thành
Troy” - “Nạn Kiều” “Phương án II” - “Ban 69” - Vụ Cát Lái; Chương 5:
Chiến tranh - Biên giới Tây Nam - Pol Pot - Đi dây - Khmer Đỏ và
Campuchia dân chủ - “Kẻ Thù Lịch Sử” - Thất bại trong tấn công ngăn chặn
(Pre-emptive War) “Nhất Biên Đảo” - “Áo lính lại khoác vào ngay”;
Chương 6: Vượt biên - “Vượt biên” - Từ “trí thức yêu nước” - Đến “thường
dân” - Trước khi tới biển - Đường tới các trại tị nạn - Chương 7: “Giải
Phóng” - Sài Gòn thay đổi - Kinh tế mới Đốt sách - Cạo râu - “Cách
mạng là đảo lộn” - Lòng người - Những người được sinh ra không đúng cửa -
“Cánh cửa” Thanh niên Xung phong - “Nổi loạn” - “Sài Gòn lại bắt đầu
ghẻ lở” -
Phần II: Thời Lê Duẩn
Chương 8: Thống nhất Nước Việt Nam là một - “Bắc hóa” - Chủ nghĩa xã
hội - “Con đường của Bác” - “Mỗi người làm việc bằng hai” - Lê Duẩn và
mối tình miền Nam - Chấp chính và chuyên chính - Chương 9: Xé Rào - Bế
tắc - Mậu dịch quốc doanh - Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng - Tháo gỡ
- Nghị quyết Trung ương 6 - Bù giá vào lương - Cắm cờ xé rào - Khoán
chui - Ông Kiệt xé rào, ông Linh lãnh đạn - “Ai thắng ai” - Chương 10:
Đổi mới - Hội nghị Đà Lạt - Nhóm giúp việc mới - Người của những khúc
quanh lịch sử - Từ chính sách Kinh Tế Mới - Đến chọc thủng thành trì bao
cấp Giá-Lương-Tiền - Nã pháo vào bộ tổng - Khép lại trang sử Lê Duẩn -
Vai trò của Mikhail Gorbachev Tuyên ngôn đổi mới - Bàn tay Lê Đức Thọ -
Phút 89 - Chương 11: Campuchia - “Pot ở đầu phum ta cuối phum” “Xuất
khẩu cách mạng” - Tư tưởng nước lớn - Bị cô lập - Phương Bắc - Hội nghị
Thành Đô - Campuchia thời hậu Việt Nam.
* * *
Đã có nhiều nhận xét về cuốn “Bên Thắng Cuộc” về phần chính trị, về
những sai lầm trong nội dung, và chúng ta đã nghe một số chỉ trích, chê
bai. Riêng đối với người viết này thì ta cần biết lịch sử cận đại VN qua
nhiều phía kể cả về phần kinh tế. Muốn tranh đấu ta phải hiểu đối thủ
và do đó phải tìm hiểu và phân tích những thành công và thất bại của họ ở
chỗ nào?
Người ta nói lịch sử thường được viết theo những người thắng cuộc
nhưng từ 1975 đến nay đã bao nhiêu tài liệu được giải mật và nay cuộc
chiến tại VN được đánh giá qua nhiều khía cạnh mới. Người ta nói có
sách, mách có chứng nhưng với điều kiện là sách viết đúng, không tuyên
truyền. “Bên Thắng Cuộc” đã mang một ánh sáng mới cho những trang sử cận
đại Việt Nam khi tác giả đã cố gắng có cái nhìn cân bằng – trung thực
mặc dù thiếu phân tích.
Dưới khía cạnh kinh tế ta có thể xem cuốn sách như một nguồn tài liệu
và có ghi lại nhiều điều hữu ích cho sự nghiên cứu lịch sử hay tài liệu
tra cứu. Nó cho thấy là chính các chính sách kinh tế ngây thơ “của một
nền kinh tế tập trung bao cấp” đã phá kinh tế miền Nam. Và sự yếu kém
về kinh tế vẫn tiếp tục đến ngày nay vì “tư duy” trên nền tảng kinh tế
chỉ huy với não trạng rất hẹp hòi của giới lãnh đạo.
Cuốn sách được viết bằng giọng rất bình thản, khách quan, khác hẳn ký
ức của nhiều người đã trải qua những tình huống cay đắng của bên thua
trận, trong đó có người đang viết những dòng này. Những chính sách sau
ngày 30/4/75 của những “đỉnh cao trí tuệ của Bộ Chính Trị” đã thực thi
tại miền Nam, đã lộ rõ trong quyển sách này. Nó cho thấy những suy nghĩ
thô sơ, hiểu biết quá lạc hậu về các vấn đề quản trị một đất nước, nhất
là về quản lý kinh tế.
Thật vậy quyển sách có trên 3 chương (chương 3, 9 và 10) nói về kinh
tế mà ta có thể gọi là “quy trình phá hoại kinh tế miền Nam” qua việc áp
đặt một cách máy móc guồng máy “tập trung bao cấp” vào kinh tế. Chương 3
kể lại quy trình phá hoại kinh tế VN bởi tập thể Bộ Chính Trị qua việc
cải tạo kinh tế. “Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai
cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng
ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải
trải qua hai lần bị “đánh”.
Các “Chiến dịch X-2” ngày 10-9-1975, việc “Đổi tiền” ngày 22 và
23-9-75, khi đồng tiền cũ của chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng
tiền mới được coi là “chiến dịch” còn gọi là “X-3” trong đó mỗi hộ gia
đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền với 500 đồng tiền VNCH ăn một
đồng tiền mới Ngân hàng [nói theo kinh tế thì đây là một cuộc đổi tiền
bóc lột]. Ngày 3-9-1975, Ngân hàng tuyên bố “Công khố phiếu (miền Nam)
không còn giá trị”, [Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù
của các ngân hàng hay của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu
vay để thêm ngân sách cho guồng máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu
và bè lũ đã mang tiền của tháo chạy, Chánh quyền Cách mạng hiện đang
quản lý tài sản của toàn dân]
Các chiến dịch “Đánh tư sản” - “Chiến dịch X-2”, việc đổi tiền (X-3),
việc đánh “Gian thương” hay việc “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh.”
Tác giả kể lại một cách bình thản một số sự kiện đã đưa đến sự phá hoại
kinh tế miền Nam qua việc áp đặt các chính sách “XHCN” được áp dụng một
cách ngây thơ – nếu không nói là mù quáng trong vấn đề cải tạo công
thương nghiệp tại miền Nam.
Chương 9 kể lại quy trình tìm mò các giải pháp kinh tế do những bế
tắc của kinh tế tập trung bao cấp của VN qua việc “Xé Rào.” Chỉ mấy năm
sau 1975, những người như ông Võ Văn Kiệt nhận ra là các chính sách cơ
chế “tập trung quan liêu bao cấp” cho kinh tế thất bại và họ đã phải tìm
cách “xé rào” để giải quyết các bế tắc của kinh tế VN. “Bên ngoài thì
giặc dã, bên trong thì bức bối, đói kém, không khí càng trở nên ngột
ngạt, nhất là từ giữa năm 1978. Lượng người bỏ nước ra đi càng lúc càng
tăng, cỗ xe như đang lao xuống dốc mà không ai nhìn thấy chân phanh ở
đâu…” Các bế tắc kinh tế do mậu dịch quốc doanh - Máy bỏ không, công
nhân cuốc ruộng và cách nào VN đã cố tháo gỡ các khó khăn kinh tế do
việc áp dụng hệ thống “bao cấp” tại VN. [Ông Kiệt không phải chờ quá lâu
để chứng kiến những gì mà chủ nghĩa xã hội mang lại cho Sài Gòn. Đại
hội Đảng lần thứ IV đề ra mục tiêu: “Năm 1980 đạt ít nhất hai mươi mốt
triệu tấn lương thực quy thóc, một triệu tấn thịt hơi các loại”.] Trên
thực tế là, tại vựa lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long, sau khi “cưỡng bức tập
thể hóa”, sau khi máy cày, máy kéo của tư nhân bị đưa vào hợp tác xã,
tập đoàn đã trở nên tàn phế, mặc kệ các chỉ tiêu Đại hội, sản lượng
lương thực, thực phẩm giảm mạnh. [Nhưng gạo lại để ẩm mốc ở Long An
trong khi dân Sài Gòn vẫn đói.] Quyển sách nói đến “Nghị quyết Trung
ương 6” hay việc nhận ra nguyên nhân đất nước khó khăn là vì "những
khuyết điểm chủ quan” và chủ trương xóa bỏ ngay những chính sách chế độ
bất hợp lý, gây trở ngại cho sản xuất, khuyến khích việc phát triển sản
xuất, … Chương này cũng nói về vấn đề xé rào và khoán chui và hai lần
đổi tiền năm 1985. Quyển sách cũng nhắc lời của KS Dương Kính Nhưỡng
(cựu Bộ trưởng của VNCH) một cách rất chí lý: cần phải có luật lệ mới
quản lý được một đất nước.
Hậu quả các chính sách kinh tế “tập trung bao cấp” là “Cuộc sống của
những người dân ở hậu phương cũng trăm bề khó khăn: Cây đinh phải đăng
ký / Trái bí cũng sắp hàng / Khoai lang cần tem phiếu / Thuốc điếu phải
mua bông / Lấy chồng phải cai đẻ / Bán lẻ chạy công an / Lang thang đi
cải tạo / Hết gạo ăn bo bo / Học trò không có tập...” Nhờ tình trạng này
cho nên chương 10 nói về Đổi mới - Hội nghị Đà Lạt - Nhóm giúp việc mới
- Người của những khúc quanh lịch sử Từ chính sách Kinh Tế Mới - Đến
chọc thủng thành trì bao cấp Giá-Lương-Tiền - Nã pháo vào bộ tổng - Khép
lại trang sử Lê Duẩn - Vai trò của Mikhail Gorbachev - Tuyên ngôn đổi
mới - Bàn tay Lê Đức Thọ - Phút 89. Đây là quy trình tìm cách giải quyết
các khó khăn của kinh tế VN.
Tác giả này trong bài (1) được viện ISEAS của đại học Singapore xuất
bản đã chứng minh là đến 1972, không ai của “nhóm đỉnh cao trí tuệ” của
BCT tại VN có một mảnh bằng bằng Đại Học. Hậu quả của việc quản lý yếu
kém của lãnh đạo có “Mác xít nhưng trình độ quá thấp” [đỏ hơn chuyên] là
những tai hại mang đến cho đất nước VN.
Một điểm đáng lưu ý là tác giả Huy Đức đã dùng chữ Tuẫn Tiết để chỉ
cái chết của các tướng lãnh miền Nam như Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam,
Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ hay Đại tá Đặng Sĩ Vinh, những người đã tự
kết liễu đời mình vào thời điểm miền Nam sụp đổ. Theo tác giả thì nhiều
quân nhân VNCH vô danh đã tìm đến cái chết trong danh dự những ngày sau
đó.
Tác giả cũng đã trích dẫn huyền thọai về Hồ Chí Minh và bà Nguyễn Thị
Năm do Hoàng Tùng dàn dựng. Chương Nạn kiều trong sách làm sáng tỏ việc
tổ chức cho người Hoa vượt biên để gom vàng của nhà nước. Phương án II
cũng giúp chúng ta thấy bao nhiêu thảm cảnh đã xảy ra, trong sách ghi
lại: “Người di tản được đóng vàng để công an mua thuyền hoặc đóng thuyền
cho đi mà không sợ bị bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện Phương án II
chỉ do ba người là bí thư, chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết
định. Công an được giao làm nhiệm vụ đứng ra thu vàng và tổ chức cho
người di tản”.
Quyển sách cho thấy Đảng Cộng Sản là một tổ chức vô cùng tàn bạo mà
lại rất yếu kém về chuyên môn. Người cộng sản VN mang bộ mặt đạo đức
giả, mị dân, nhưng cũng có nhiều người cố gắng tìm giải pháp khi bế tắc.
Quyển sách này giúp hai phe (thắng và thua, nói tóm là dân VN) tái
khẳng định sự thật qua những việc gì đã xẩy ra từ 1975 đến nay. Vì mù
quáng hay ngây thơ theo một chủ nghĩa mà VN đã phải trải qua bao vấn nạn
– bao khó khăn, hoàn toàn phá kinh tế miền Nam chỉ vì … “quá ngu xuẩn
vì duy ý chí.”
Cái tên sách "Bên Thắng Cuộc" có lẽ cũng nói lên cái thâm ý của tác
giả Huy Đức, là không coi sự thắng trận của miền Bắc là một cái gì quá
vĩ đại và tuyệt đối. Hai chữ "thắng cuộc" cho người đọc cái cảm giác đó
chỉ là một cái gì ở tầm cỡ nhỏ, tạm thời, trong khi dòng chảy phong phú
và đa dạng của lịch sử ngày càng cho thấy cái chính nghĩa lại thuộc bên
thua cuộc là miền Nam. Nhân quyền, tự do về tư tưởng, tín ngưỡng, ngôn
luận, cư trú và về kinh tế v.v... là những đặc điểm vốn đã là nền tảng
cho chế độ miền Nam, ngày càng là các đòi hỏi bức thiết của mọi tầng lớp
dân chúng Việt Nam hiện tại, sau gần 40 năm chế độ cộng sản được áp đặt
cho cả nước, nhất là hiện tượng phụ thuộc vào Trung Cộng ngày càng rõ
rệt, và việc "đảng đàn anh" đương nhiên coi Hoàng Sa và Trường Sa là của
họ.
Vào thời điểm này ai thắng ai thua không còn là điều quan trọng, mà
việc tái khẳng định sự thật lịch sử, để từ đó sửa chữa các sai lầm và
đưa đất nước đến độc lập, thịnh vượng và dân chủ mới là điều đáng quan
tâm nhất cho tất cả người dân Việt Nam. Quyển sách này chính là bước đầu
giúp việc đánh giá lại “giấc mơ XHCN” mà tác giả cho thấy đã mang bao
tai họa cho dân VN. Người viết bài này cũng đã sống tại Việt Nam giai
đoạn sau 1975, từ tù cải tạo đến việc bị phân biệt đối xử bị coi là loại
công dân hạng hai, cho đến khi vượt biển tìm được tự do; và sau đó còn
có dịp về làm việc tại Việt Nam trong chương trình phát triển của Liên
Hiệp Quốc (UNDP) nhằm giúp cải tổ hành chánh và kinh tế. Với các kinh
nghiệm đã trải qua, người viết đánh giá là ngoài vài sai lầm nhỏ, quyển
sách này đã cố nói lên được nhiều sự thật. Nó cần phải được đọc nhiều
lần một cách cẩn thận, để hiểu được những gửi gắm của tác giả, trong khi
chờ đọc nốt cuốn thứ hai của Huy Đức.
Ts. Đinh Xuân Quân
1. The Political Economy of the Vietnamese Transformation Process,
Contemporary South East Asia, Volume 22, Number 2, Institute of South
East Asia Studies, August 2000.