Phạm Thị Hoài
Tài năng của Mạc Ngôn hẳn không nằm ở lĩnh vực viết diễn từ, nhất là diễn từ Nobel.
Trước
khi đến lượt ông, áp lực của vinh quang tột đỉnh cũng đã biến nhiều nhà
văn xuất sắc thành những diễn giả nhợt nhạt tại Stockholm. Sau
Stockholm nhiều người chuyển nghề, từ nghề văn sang nghề chủ nhân Giải
Nobel – hãy nhìn Wole Soyinka, Günter Grass, Imre Kertész… Khả năng sự
nghiệp của một nhà văn được Giải Nobel chấm dứt ở Thụy Điển là khá lớn –
hãy nhìn Hemingway, Alexander Solzhenitsyn, Octavio Paz, thậm chí
Samuel Beckett…
Song Mạc Ngôn còn gánh thêm những áp lực khác mà trong suốt lịch sử
của giải thưởng này không một đồng nghiệp nào của ông, kể cả nhà văn
Xô-viết Mikhail Sholokhov,
phải chịu: áp lực từ chính Giải Nobel dành cho ba người Trung Quốc
khác, trong đó hai người phải sống lưu vong và một người đang ngồi tù:
Đức Dalai Lama, nhà vănCao Hành Kiện và nhà văn Lưu Hiểu Ba;
áp lực từ cương vị Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc của ông, từ vụ
tung hô Mao Trạch Đông, từ những phát ngôn bênh vực cho chế độ kiểm
duyệt tại Trung Quốc… Trong hoàn cảnh khó mở miệng nhưng không thể “mạc
ngôn” này, công thức đã giúp ông lách qua mọi chướng ngại vật ở Trung
Quốc – 1/3 hiện thực, 1/3 huyễn giác huyền ảo, 1/3 ẩn dụ tùy cách hiểu –
không hoàn toàn đem áp dụng được. Bài diễn từ nhan đề “Những người kể chuyện”
của ông theo công thức mới: 1/3 hiện thực, 1/3 ẩn dụ và 1/3 biện luận.
Kết quả là một sản phẩm vô thưởng vô phạt đến quá nửa, kể lể về bản
thân, điểm xuyết bằng những nhận định không lấy gì làm độc đáo về bản
chất cũng như sứ mệnh của văn chương, để cuối cùng thanh minh cho chỗ
đứng của tác giả trước những chỉ trích mạnh mẽ, đặc biệt từ nhiều đồng
nghiệp và đồng bào nổi tiếng. Thông điệp từ sự khổ sở dài lê thê này có
thể tóm tắt như sau: Ừ thì hoàn cảnh phức tạp nhưng tôi chỉ là một người
kể chuyện thôi mà, và tôi thấy mình cũng xứng đáng đấy chứ, thôi các vị
đừng làm ồn lên nữa. Ông là chủ nhân Giải Nobel Văn chương đầu tiên
phải biện bạch cho vinh quang của mình.
Đầu tiên ông kể về thời thơ ấu cơ cực, một đề tài đã được đào đến gãy
cán bút của nhà văn mọi quốc gia. Rồi bà mẹ chất phác nhưng đầy nhân
hậu và thấu tỏ lẽ đời của ông xuất hiện tất yếu trên cái nền tăm tối đó
và ông dựng cho bà một đài tưởng niệm[1].
Rồi định mệnh lại xui khiến một người kể chuyện ghé qua chợ làng và
đánh thức trí tưởng tượng của ông, chưa kể việc ông cũng là một trong
những hậu duệ của Bồ Tùng Linh. Hơi nhiều khuôn đã đúc đến lần thứ bao
nhiêu cho đường đến văn học của một cậu bé lam lũ thất học. Rồi làng Cao
Mật xuất hiện, và ông tiết lộ làng này có chứng nhận kết nghĩa với
Yoknapatawpha County và Macondo. Đến đây bầu kiên nhẫn của tôi đã vơi
trông thấy và cạn hẳn ở phần tiếp theo, bài giảng Mo Yan for
Beginners với cả chục tác phẩm. Song diễn giả vốn là một nhà kể chuyện
hấp dẫn này không bỗng nhiên đem sự tẻ nhạt dài hơi ra hành hạ. Ông hành
hạ có phương pháp. Có chiến thuật. Chắc phải dựa trên binh pháp Tôn Tử,
cái gì đó “lừng khừng như rừng rậm”, cái gì đó “bớt lửa dưới nồi”, để
rồi xùy ra chiêu tự vệ vào lúc tất cả đã ngủ gật.
Ông nói rằng mình không sợ lên án những mặt tối của xã hội, mà e rằng
bức xúc và phẫn nộ chỉ khiến chính trị quay ra đàn áp văn chương và
biến tiểu thuyết thành phóng sự về các vấn đề xã hội. Rằng với tư cách
là một thành viên của xã hội thì tiểu thuyết gia tất nhiên có quan điểm
và cách nhìn riêng, nhưng khi viết thì phải tuân theo quan điểm nhân văn
chung và chỉ như vậy mới vượt ra khỏi khuôn khổ của những sự kiện nhất
định và vượt lên chính trị, vĩ đại hơn chính trị. Rằng ông thấu hiểu bản
chất của con người, trong người nào Thiện và Ác, đúng và sai cũng trộn
lẫn, khó lòng phân biệt, đó chính là nơi thử thách tài năng, khiến nhà
văn vượt qua chính trị và đạt đến tầm thượng thừa trong văn học. Nói
ngắn gọn: Các vị muốn gì nào? Tôi sáng tạo ra thứ văn học đích thực, văn
học vĩnh cửu, vượt ra ngoài chính trị nhất thời.[2] Hơi nhiều “vượt qua chính trị” cho một người muốn ngăn chặn nguy cơ chính trị đàn áp văn chương.
Và cũng vượt ra ngoài thị phi phù phiếm. Những điều tiếng xung quanh
giải thưởng này chẳng liên quan gì đến ông, ông chỉ sắm vai người đi xem
kịch. Xem vị tân khôi nguyên được tặng hoa, ném đá và té bùn rồi bình
thản mỉm cười chùi bùn bẩn, nhẹ nhàng kể khuyến mại cho cử tọa ba câu
chuyện.
Chuyện thứ nhất kể về một học trò không chịu khóc vờ như cả lớp,
trong đó có Mạc Ngôn, khi đi xem một triển lãm về tình cảnh khổ đau của
nhân dân Trung Quốc (hẳn là trong những chế độ trước). Mạc Ngôn và nhiều
học trò khác đem việc đó ra mách thầy, cậu học trò kia bị kỉ luật. Sau
này Mạc Ngôn ân hận, xấu hổ và hiểu ra rằng: Nếu mọi người đều khóc thì
ít nhất nên có một người không khóc. Và nhất là khi tất cả khóc vờ thì
càng nên có một người không chịu khóc theo.
Chuyện thứ hai kể về một tình huống giữa Mạc Ngôn khi là lính trong
quân đội với một sĩ quan chỉ huy. Một thời gian dài ông tự thấy mình
dũng cảm, dám hiên ngang đối đáp và làm cấp trên bẽ mặt. Sau này ông lại
tự trách mình đã xử sự như vậy[3].
Chuyện thứ ba kể về tám người thợ hồ tránh bão trong một tu viện cổ.
Bão ngày càng mạnh. Họ bảo nhau rằng chắc một người trong số họ đã phạm
tội gì xúc phạm đến trời đất, vậy người đó phải ra mà chịu hình phạt để
những người vô tội được yên lành. Nhưng không ai tự nhận mình là kẻ tội
đồ. Họ bàn nhau vứt hết mũ rơm ra ngoài. Mũ ai bị cuốn đến cổng ngoài
thì kẻ đó chính là thủ phạm. Quả nhiên bảy chiếc mũ trụ lại, một chiếc
bị gió cuốn ra cổng. Bảy người hè nhau tống được thủ phạm ra ngoài. Đúng
lúc ấy tu viện sụp đổ.
Bài học từ chuyện thứ nhất: không chạy theo khuôn mẫu tập thể không
hẳn là xấu như ta đã tưởng, mà có khi là cần thiết, nhất là khi khuôn
mẫu ấy giả tạo. Từ chuyện thứ hai: làm cấp trên bẽ mặt không hẳn là dũng
cảm như ta đã tưởng, mà có khi là không nên. Từ chuyện thứ ba: họa của
người không hẳn là phúc của ta, nhất là khi ta bắt người phải hứng họa,
và người tính không bằng trời tính.
Tôi phải nhận là mình không có duyên với những sự thâm thúy bỏ túi
rất phổ biến trong văn học Trung Quốc và Việt Nam từ cổ đến tận kim như
thế. Trong các tác phẩm của Mạc Ngôn chúng được dùng hết công suất, đó
là một trong những lí do khiến tôi không có nhu cầu đọc nhiều hơn ba tác
phẩm của ông. Tôi cho đó là một thủ pháp dễ dãi, dù người sử dụng nó
hẳn rất đắc chí về sự khôn ngoan của mình. Tôi không thích những tác giả
khôn ngoan, ghét những tác giả khôn ranh và thậm ghét những tác giả
khôn lỏi. Chiếc cửa hậu của đạo đức mà Mạc Ngôn để hé cho mình trong câu
chuyện thứ nhất lộ ra nét khôn lỏi ấy.
Ai muốn hiểu thế nào thì hiểu, ông chỉ là một người kể chuyện thôi
mà. Và nhiều chuyện tuyệt vời đã diễn ra sau khi ông được trao giải,
khiến ông thêm vững tin vào sự tồn tại của sự thật và công lí, Mạc Ngôn
kết thúc diễn từ Nobel của mình như thế. Một blogger Trung Quốc bình
luận: Người nói ra sự thật trần trụi thì vào tù. Người gói sự thật vào
những câu chuyện hư cấu thì được trao giải.
Ngày này năm sau, một nhà văn khác sẽ đứng ở chỗ ông đang đứng. Nhưng
cuộc đời ông đã chọn là ở Trung Quốc. Phần còn lại của nó dài hơn mấy
chục phút vinh quang ở Stockholm, cái vinh quang mà ông phải dùng rất
nhiều lời để biện bạch.