Cuốn sách mới về chiến tranh Việt Nam kể lại nhiều sự thật mà giới truyền thông Hoa Kỳ trước đây tránh né, đang dẫn đầu về số bán ở Amazon.
SACRAMENTO - Ngày 15 Tháng Tám sắp tới, Viện Bảo
Tàng Quân Sự thuộc tiểu bang California sẽ có một buổi giới thiệu cuốn
sách mới về chiến tranh Việt Nam nhan đề “Ride the Thunder” (tạm dịch Cưỡi
Sấm Sét). Trong ngày hôm ấy tác giả Richard Botkin sẽ diễn giải về nội
dung cuốn sách và ký tên lưu niệm.
Theo tin báo điện tử của World Net Daily,
hiện nay trên mạng ở trang nhà của Amazon.com, cuốn này đang dẫn đầu số
bán về thể loại chiến tranh Việt Nam và cũng dẫn đầu số mua trong giới cựu
chiến binh.. Ðồng thời Ride the Thunder cũng đứng hạng hai về lượng sách
bán trong đề mục Asian History.
Theo viện bảo tàng này,
tác giả Botkin đã khai mào một trào lưu mới khi “kể lại câu chuyện anh
hùng của một số Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và Nam Việt Nam . Họ đã chiến
đấu tuyệt vời và làm khơi dậy ngọn sóng triều của cuộc chiến trong khi các
nhà làm chính sách đã buông tay đầu hàng.”
Botkin kể lại chuyện Ðại Úy John Ripley với
hành động táo bạo khi phá sập cây cầu Ðông Hà; chuyện Thiếu Tá Lê Bá Bình
cùng bảy trăm chiến binh TQLC đã ngăn chận được làn sóng tấn công của hai
mươi ngàn quân Bắc Việt như thế nào. Trong đó cũng không quên nhắc đến kỳ
công của Trung Tá Gerry Turley trong trận “Mùa Hè Ðỏ Lửa” từ một khách mời
ghé lại vùng Hỏa Tuyến để thăm một số sĩ quan cố vấn, vì kẹt bởi cuộc tấn
công bất ngờ năm 72, đã bất đắc dĩ trở thành vai trò lãnh đạo bên cạnh
Tướng
Giai can đảm ngăn trở được
Quân Khu I khỏi bị tràn ngập bởi làn sóng “đỏ.”
Trong cuộc phỏng vấn đặc
biệt dành riêng cho World Net Daily, tác giả Botkin giải thích người Mỹ
hiểu sai về chiến tranh Việt Nam như thế nào - bởi vì họ ở xa đến 8,000
dặm, và chỉ nghe thuật lại một chiều. Botkin nói, “Về phía người Mỹ, theo
tôi tất cả đều bị nghe những thông tin về cuộc chiến đã bị bóp méo và
không trung thực. Ða số người Mỹ kể cả những người đã phục vụ ở Việt Nam
đều không nhận thức được sự hy sinh của người dân Nam Việt Nam . Họ chính
là những người yêu chuộng tự do.”
Botkin sưu tập những
thông tin cho thấy quân Cộng Sản thường xuyên tấn công người dân vô tội
trong có đàn bà, người già và trẻ em bằng hành động pháo kích bừa bãi. Năm
1968, quân Bắc Việt tàn sát từ ba đến sáu ngàn người và đem chôn trong
những hố chôn tập thể. Biết bao gia đình phải chịu tang tóc, đau khổ và
tủi nhục mà người Mỹ chưa bao giờ hiểu đến, trong khi họ dễ dàng tin theo
những tài liệu tuyên truyền của đối phương do giới truyền thông Tây phương
chưng ra để phê bình cuộc chiến. Giới truyền thông này đã làm hoen ố đi nỗ
lực của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam, góp phần vào sự xoay chiều của lập trường
ủng hộ cuộc chiến.
Theo Botkin năm 68 là năm
nổ bùng trận chiến thu phục nhân tâm người dân Hoa Kỳ qua màn ảnh truyền
hình, và đối phương đã biết tận dụng lối tường thuật một chiều của báo chí
Tây phương gây ảnh hưởng tốt cho mình thêm.
Botkin lưu ý rằng báo chí
và phim ảnh Hoa Kỳ vẫn luôn miêu tả người Việt như là những kẻ tham nhũng
thối nát, hèn yếu, khiếp nhược và phản bội hơn là những con người muốn
chiến đấu cho tự do. Ông ta nói rằng “Ride the Thunder” trưng ra cho mọi
người những câu chuyện truyền cảm mà truyền thông trước đây tránh né không
muốn nhắc đến. Ðó là những câu chuyện về tình thân hữu, sự can trường,
lòng yêu nước và lòng can đảm.
Ngày 23 Tháng Giêng năm
1973, Tổng Thống Mỹ Nixon công bố “Hòa Bình trong Danh Dự” trong một bài
diễn văn phổ biến toàn thế giới trên hệ thống truyền hình.
Botkin kết luận, “Chúng ta nói vậy để rút chân ra
khỏi Việt Nam cho có danh chính ngôn thuận. Lịch sử đầy dẫy những bài học
cho thấy Cộng Sản ngồi xuống đặt bút ký biết bao hiệp định mà họ thấy có
lợi, rồi sau đó lại phủi tay rũ bỏ. Ðúng là rút quân trong danh dự, hay
‘Hòa Bình trong Danh Dự’ - mà thật ra chẳng có chi là danh dự mà cũng
chẳng có hòa bình gì ráo.” (T.P.)
|
Hãy vinh danh người lính
Việt Nam Cộng Hoà
Nguyễn thị Thảo
An
Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật
hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo
vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và
nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một
quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai
nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm
giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo
quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của
đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách
nhiệm không hề thay đổi.
Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào
quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh
đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở
thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính
với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên
nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh
giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.
Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương
Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích
cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện
diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng
cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.
Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm
dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh
đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có
tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm,
anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.
Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng
nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình
đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng
thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai
mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay
ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen
với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.
Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua
những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa
lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn
tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam
Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền
Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve
như sáo thổi.
Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi
diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính
nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền
Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả...
cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm
poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân,
người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa
lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo
đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại.
Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.
Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia
không hề muốn trở thành dân Cộng Sản,
những
người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính
để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia,
ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề
lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng
người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng.
Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua
đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người
lính.
Và
ở hậu
phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và
tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ
Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng
và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như
vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình
quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền
hình.
Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết
là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để
thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để
diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung
bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà
trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người
lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no
tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi
đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những
cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính
trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai
tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ
lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.
Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải
nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa
là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng
lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả
ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi
tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm
thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài
trận tuyến với đối phương.
Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như
tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có
thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính
chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc
nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.
Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức
muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu
trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận,
đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ
vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể
anh, người lính,
anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống,
vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.
Ở
chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở
hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo
tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để
cầu lợi an thân.
Những người dân của anh, những người anh hy sinh
để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào
ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp
tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền
sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.
Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái
chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời
là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định,
mù quáng trong định kiến. Tất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn
chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận
lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối
cùng.
Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định
Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự
do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và
nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm
như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi
thảm.
Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân
đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam
chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận
bi thương và oai hùng như người lính?
Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu
không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt
trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn
được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục
ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy
da.
Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn
trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long.
Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ
có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại
tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh
của riêng anh.
Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh
phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm
đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ,
chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai
yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con
đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình
yên.
Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát
cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo,
nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân
loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên
nghỉ ?
Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết.
Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên
qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương
có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh
vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa
cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân
trên đường triệt thoái.
Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu
những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn
em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm
khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác
làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước
cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.
Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi
súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có
thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và
gian khổ của hôm quả có thật không? ngày buông rơi vũ khí, anh mơ được về
để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa
một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?
Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và
đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để
người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho
đời lính?
Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu.
Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một
mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo
lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính
thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.
Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi
những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ
phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng
thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và
người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc
mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa
trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không
thật đến ở Việt Nam.
Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những
người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như
con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây
dựng văn minh thời thượng.
Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng
Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan
trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và
oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền
Nam.
Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân
vào thành phố, thì người dân Quốc
Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và
những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch
sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên
Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không
phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ,
viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta.
Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của
người lính vượt quá nỗi bi thương.
Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người
lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và
năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho
chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do,
để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải
đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.
Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy
lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già
không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không
cần tuôn chẩy.
Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi
màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất
cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Anh, người lính trong thời chiến thành người tù
của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng
chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng
dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.
Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến
tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù
Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại.
Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và
vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra
một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp
đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.(NPH in nghiêng)
Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường
có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có
lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt
kiệt sức lực anh trong rừng thẳm, đày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi,
đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt
hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.
Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh
chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh
chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa
bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua
những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh
cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.
Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý
nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà
sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã
xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất
trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ mỗi lẻ loi (Tô Thùy Yên)
Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản,
nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê
hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt
Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước
thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?
Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ
như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã
đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ
cho anh?
Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên
chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn
năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu
sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.
Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục
trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học
trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán
thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố
Mỹ.
Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép
kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo
tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải
thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương
anh.
Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để
trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt
Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm
lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh
danh.
Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để
tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con
thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam.
Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh
chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.
Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống
nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa
quốc gia. Có phải giờ đây,
chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video,
nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ
vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh
diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta
to.
Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay
đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu
người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người
Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa
tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa
của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại
tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng
Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh
ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.
Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng
lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho
người lính? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ
ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể
xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà.... Hãy
giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa
thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong
có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương
lai....
Nguyễn thị Thảo
An
|
Liên Mạng
Thứ Hai, 20 tháng 8, 2012
Sách mới về chiến tranh VN khiến truyền thông Mỹ không vui
Lưu trữ
-
▼
2012
(2743)
-
▼
tháng 8
(321)
- Nhân danh Việt Nam
- Liệu Đảng có thật sự chống tham nhũng?
- Xứ sở của kinh doanh bất lương.
- Vụ Nguyễn Đức Kiên và các mặt yếu kém của chế độ C...
- Tỉnh táo để nhận diện
- Quyền Con Người và Tôi và Chúng Ta
- Châu Á - nơi chủ nghĩa dân tộc vẫn còn quan trọng
- Hãy cùng chúng tôi nói KHÔNG với tình trạng công a...
- Về dân quyền và dân tộc nhân 30/4
- 24 năm nhìn lại một bài viết
- Bầu Kiên – Ông là ai?
- Vấn đề Biển Đông và nguy cơ chia rẽ dân tộc
- Thổi phồng mối đe dọa của Trung Quốc
- Kịch tính và kịch bản
- Cảnh sát, trở thành người kháng cáo, đòi công lý ở...
- TS Nguyễn Quốc Quân được bỏ tội ‘khủng bố’
- TỰ DO BÁO CHÍ
- Cuộc chiến giành ghế Giám đốc CA TP. Hà nội
- Ông Nguyễn Văn Bình bị báo nước ngoài chê
- Không được cấm quyền yêu nước
- Du học sinh Việt Nam- Một thế hệ “vượt biên” thời ...
- Xin đừng cai trị dân bằng sự ngu xuẩn!
- Phong Trào Con Đường Việt Nam phát động cuộc thi v...
- Những vấn nạn của một Thủ đô xanh, sạch, đẹp
- Bảo tồn một món quà của thiên nhiên
- Dạy trẻ em thật khó
- Người chụp hình HT Thích Quảng Ðức tự thiêu qua đời
- Khi đàn trâu dàn hàng ngang
- Biển Đông: Quyền lợi kinh tế và tinh thần dân tộc
- CƯỜNG QUỐC DÂN OAN
- Vả vào mồm cái thằng dám bảo dân ngu
- Trung Quốc mời thầu khai thác dầu ở khu vực đang t...
- Đấu đá chính trị Việt Nam sôi bỏng trong lúc kinh ...
- Lỗ hổng đã 67 năm
- Cú đấm knock-out của Trương Tấn Sang-Nguyễn Phú Trọng
- VIỆT NAM XỨ SỞ CỦA NGHỊCH LÝ VÀ VIẾT TIẾP
- Tranh chấp Biển Đông: Không nên ngồi chờ Trung Quốc
- Tại sao chúng tôi xấu hổ vì hộ chiếu Cu Ba?
- Để tang nước
- Tạ Phong Tần: “Cây cứng đứng đầu gió”
- Cướp hô cướp và lãnh đạo đi giày hay dép quai hậu?
- Đơn thư của gia đình ông Cù Huy Hà Vũ gửi Chủ tịch...
- Ðêm nguyện cầu
- Human Rights Watch
- Liệu đây là khởi đầu của sự chấm dứt của đảng cầm ...
- Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất đồng hành cùng dâ...
- Blogger Phong Tần vẫn “vững vàng”
- Chính Trường VN trở nên sôi động vào lúc kinh tế d...
- Cảnh báo malware nguy hiểm xuất xứ từ Trung Quốc
- Nguy cơ xung đột đang sôi sục ở Biển Đông
- Những biến chuyển bất lợi tại Á Châu
- Từ chỗ đứng người dân nhìn về thời sự đất nước
- Chủ tịch HĐQT Eximbank: Trung Quốc muốn gây rối lĩ...
- Đơn thư của gia đình ông Cù Huy Hà Vũ ngày 27/8/2012
- Nhà giàu xứ ta
- Những suy nghĩ cá nhân về tình hình đất nước
- Hoa Kỳ không nên bán rẻ nhân quyền tại Việt Nam
- Bầu Kiên bị bắt, rồi sao nữa?
- Cách mạng phải có tổ chức
- Thân nhân của 17 thanh niên Công Giáo có mặt ở Hà Nội
- Bản cáo trạng của VKSND tỉnh Đắc Nông về thầy giáo...
- Nhà cầm quyền CSVN quyết đập phá nhằm cướp vĩnh vi...
- Vì sao Nhật bất ngờ thay cùng lúc 3 đại sứ tại Tru...
- Dương Chí Dũng TGĐ Vinalines đã bị bắn chết?
- Lâu đài của tỷ phú
- Thủ đoạn của Đinh La Thăng, tướng Hưởng, Bố già Ki...
- Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) bên bờ phá sản
- Việt Nam thời "Tứ chiến": Dũng Sang Trọng và "Lạ"
- Thông đốc Nguyễn Văn Bình: Dân trí VN 'chưa cao' n...
- Làm sao để học sinh ghét Sử?
- Cách mạng phải có tổ chức
- Bóng tối
- ĐỊNH CHẾ ĐẠO ĐỨC, HAY ĐẠO ĐỨC CỦA “ĐỊNH CHẾ”.?
- Vài suy nghĩ
- Giả Dối Lên Ngôi
- Thêm một giáo dân Cồn Dầu đến Mỹ tị nạn
- VIÊT VỀ MỘT NGƯỜI VỪA BỊ BẮT.
- Hoạt cảnh Biển Đông
- Người Việt phẫn nộ biểu tình trước lãnh sự quán Tr...
- Chạy Ngược Đường Độc Lập.
- Tổng biên tập tự tử
- Lập lờ nợ xấu
- Ba trăm hai mươi năm của sự tự do
- Ngân hàng Việt Nam: Bất ổn tiếp tục lây lan
- Tôi ủng hộ Nguyễn Đức Kiên bằng tư tưởng tam quyền...
- Chứng khoán Việt Nam mất hơn 5 tỉ đô la, hệ thống ...
- THÂU TÓM NGÂN HÀNG, THÂU TÓM ĐẤT ĐAI
- Rút tiền gửi đồng loạt: ngân hàng sẽ ra sao?
- Đạp đổ Trường Thành láo khoét của Trung Quốc
- 'Vỡ quẻ Bầu Kiên' chỉ là cuộc chiến mini
- Bắt sâu nuôi khủng long
- Một vài dự đoán về trang blog Quan Làm Báo
- Nguyễn Tấn Dũng sẵn sàng thí chốt
- Ai, những ai đang cõng rắn cắn gà nhà?
- Bầu Kiên, nhà đầu tư “thầm lặng”
- Tycoon, kiểm soát báo chí và hố tử thần
- Nguy cơ nợ nần lảng vãng trong các doanh nghiệp nh...
- VÌ SAO BẦU KIÊN BỊ BẮT?
- Cuộc tắm rửa rất đáng ngờ
- Hãy trả tự do cho Đoàn Văn Vươn!
-
▼
tháng 8
(321)