Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011

Từ Bài Ca“Đáp Lời Sông Núi”

Phạm Cao Dương


Như một hiện tượng bất ngờ của lịch sử, trong những tháng cuối hè, đầu thu năm 2011, những biến cố liên hệ tới việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trước nạn xâm lấn của người Tàu đã đồng loạt và liên tiếp xẩy ra không riêng ở trong nước mà luôn cả ở Hải Ngoại và rộng hơn nữa là ở khắp nơi có ngưòi Việt cư ngụ. Biển Đông cùng với các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở ngoài khơi, các cao điểm ở biên giới phía bắc, trên đất liền, các khu rừng đầu nguồn, Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, các khu kỹ nghệ mới do người Tàu trúng thầu xây dựng dọc theo lãnh thổ của quốc gia với hàng chục ngàn, có thể tới hàng trăm ngàn và hơn nữa nhân công họ mang từ Trung Quốc sang đã trở thành đề tài cho các cuộc biểu tình tranh đấu, các cuộc thảo luận hay phản đối chính sách của nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội cùng đối tác của họ là Trung Hoa Cộng Sản. Công hàm mang tên và chữ ký của ông Phạm Văn Đồng, người đã nắm chức thủ tướng trong chính quyền Cộng Sản Việt Nam lâu nhất trong lịch sử, đã trở thành trọng tâm của sinh hoạt báo chí và truyền thông cũng như các cuộc tranh luận của không riêng người Việt mà còn cả quốc tế nữa. Tội danh bị coi như là bán nước của ông thủ tướng họ Phạm và những kẻ đồng lõa với ông cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam sau một thời gian dài được giấu kín, đến thời điểm này đã được những người liên hệ thú nhận và vụng về bào chữa. Trong ít ra là mười tuần lễ Hà Nội và Saigon với những cuộc biểu tình của ngưòi dân thuộc đủ mọi thành phần, đặc biệt là của những nhà trí thức và những chuyên viên hàng đầu của chế độ đã trở thành hai trung tâm được người Việt từ mọi nơi hướng về và được giới quan sát quốc tế hàng ngày theo dõi.

Trong sinh hoạt vô cùng sôi bỏng kể trên, qua sinh hoạt văn nghệ và đấu tranh của người Việt ở Hải Ngoại, một bài hát được làm từ trước, từ năm 2008, đột nhiên được phổ biến rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới, rồi theo những làn sóng truyền thanh và truyền hình, quốc tế cũng như của người Việt, những mạng điện tử… truyền về trong nước và được chính những người biểu tình ở trong nước cùng nhau hát rồi được các khán giả ngoài nước thích thú hát theo. Đây quả là một hiện tượng bất ngờ chỉ có thể xẩy ra ở thời đại điện tử. Nhạc Sĩ Trúc Hồ và bài Đáp Lời Sông Núi của ông bỗng nhiên trở nên quen thuộc đối với mọi người dù người đó là một cá nhân ngồi trước máy truyền hình hay máy vi tính ở nhà riêng của mình hay một đám đông tụ họp với nhau chống “Trung Cộng xâm lược và Việt Cộng bán nước” ở khắp các vùng trời Á, Âu, Mỹ, Úc, đặc biệt là các cuộc biểu tình chung quanh ngày 14 tháng 9 năm 2011, ngày nhiều người chính thức gọi là ô nhục, ô nhục hơn tất cả những ngày ô nhục khác trong lịch sử dân tộc. Chính nghĩa giành độc lập và giữ nước mà Hồ Chí Minh đề cao và người Cộng Sản từ hơn sáu mươi năm tự coi là của riêng mình và là điều mà Hồ Chí Minh coi như là “ý chí sắt đá”, “truyền thống quý báu đã có từ thời các vua Hùng” bỗng nhiên không còn nữa.[1] Tháng 9 năm 2011 mọi chuyện đã hiện ra trái ngưọc. Tên của Thủ Tướng Trần Văn Hữu của Quốc Gia Việt Nam, tên của các Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu lại được nhắc đến cùng với tên của Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà cùng với 74 chiến hữu của ông, sau này thêm 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam nữa ở Trường Sa.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao bài Đáp Lời Sông Núi[2] của Trúc Hồ lại có thể vượt không gian và đặc biệt là đường ranh Quốc – Cộng để không riêng được mọi người ưa thích mà còn được hát lên như vậy? Câu hỏi này đã khiến cho những người từng theo dõi sự xuất hiện và phổ biến của những bài hùng ca đã xuất hiện từ cả hơn nửa thế kỷ trước và đã từng làm dậy lên tình cảm và lòng ái quốc của toàn thể dân tộc nhớ tới những bài hát của thời thập niên bốn mươi của thế kỷ trước. Trong số những bài này có bài Tiếng Gọi Sinh Viên hay Sinh Viên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước và các bạn của ông ở Đại Học Hà Nội . Tiếng Gọi Sinh Viên sau đã trở thành Tiếng Gọi Thanh Niên, đoàn ca của tổ chức Thanh Niên Tiền Phong ở Miền Nam trong nhũng ngày đầu chống Pháp, rồi sau đó thành Quốc Ca của Quốc Gia Việt Nam thời Quốc Trưởng Bảo Đại để cuối cùng là của Việt Nam Cộng Hoà và hiện tại là của Người Việt Hải Ngoại. Sự liên tưởng này không phải chỉ là bắt nguồn từ hiện tượng được phổ biến nhanh chóng của hai bài hát mà từ cái tên của bài hát của Trúc Hồ: Đáp Lời Sông Núi. Bốn chữ này ai cũng phải nghĩ là được lấy từ câu đầu của bài Quốc Ca của miền Nam: “Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi” mà Trúc Hồ hồi còn đi học ở quê nhà của ông không tuần nào là không hát, ít ra là một lần. Sau này vượt biên ra Hải Ngoại chúng đã trở thành nỗi nhớ nhung không bao giờ phai nhạt, dưới hình thức này hay hình thức khác và đã được phản ảnh qua những ca khúc của ông. Vì vậy khi tìm hiểu Đáp Lời Sông Núi, người ta không thể không tìm hiểu Tiếng Gọi Sinh Viên và tìm hiểu Tiếng Gọi Sinh Viên, người ta không khỏi tìm hiểu Tiến Quân Ca vì hai bài sau đã trở thành Quốc Ca của hai chế độ đối nghịch nhau trong suốt thời gian từ sau năm 1945 cho đến những ngày hiện tại. Trong bài này người việt sẽ tìm hiểu ba bài hát qua ba phần chính yếu là tác giả và hoàn cảnh sáng tác, nội dung của các bài hát và cuối cùng là đối tượng và khả năng lôi cuốn của những tác phẩm này.

A. Tác giả và hoàn cảnh sáng tác

I. Lưu Hữu Phước
Lưu Hữu Phước là người Miền Nam. Ông ra Hà Nội “du học” vào mùa “thu năm 1940” sau khi đã học các truờng Tiểu Học Ô Môn, Trung Học Cần Thơ rồi Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký và tất nhiên là đã đậu tú tài toàn phần. Lý do là vì ở Việt Nam thời Pháp cả xứ Dông Dương chỉ có một trường đại học ở Hà Nội. Sự ra Hà Nội học của một thanh niên Nam Kỳ ở thòi này là một giai đoạn mới trong đời Lưu Hữu Phước. Sau này trong hồi ký của ông, Lưu Hữu Phước viết: “Cũng như một số bạn bè, tôi đi Hà Nội với cảm xúc của một người con đi xa trở về quê nhà. Tình yêu nước dạt dào trong tim chúng tôi.”[3] “Với tâm trạng đó, chúng tôi cảm thấy mình ra Bắc như về thăm quê cũ. Những tên địa phương như sông Hồng, núi Ba Vì, núi Tam Đảo, Ải Chi Lăng, Cửa Bạch Đằng… là những danh từ mầu nhiệm, và mầu niệm hơn nữa là những đền đài lịch sử như Lý Bát Đế, Đồng Nhân, Cổ Loa, Phù Đổng, mỗi di tích giống như một quyển sử dân tộc.”[4]. Từ những khám phá mới bằng nội tâm và bằng tình cảm kèm theo với phong trào và cuộc sống tươi trẻ của giới thanh niên, sinh viên, học sinh và hướng đạo đương thời và cùng với bạn bè, Lưu Hữu Phước đã sáng tác những bài Ta Cùng Đi, Người Xưa Đâu Tá, Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hận Sông Hát tức Hồn Tử Sĩ, Hội Nghị Diên Hồng… và tất nhiên Tiếng Gọi Sinh Viên ở thời điểm này. Tất cả cho đến khi bài này được viết và có lẽ chừng nào lịch sử Việt Nam còn, tất cả những bài hát này vẫn còn giữ nguyên được giá trị ban đầu của chúng[5]. Nên nhớ là trong thời gian này quân Nhật đã kéo vào Đông Dương và đã chia sẻ quyền hành với người Pháp. Toàn Quyền Đông Dương, Đô Đốc Decoux do nhu cầu ngăn chặn ảnh hưởng của người Nhật, đồng thời cũng để làm lệch hướng đấu tranh của giới trẻ Việt Nam thời đó đã tỏ ra cởi mở hơn. Giới thanh niên, đặc biệt là học sinh, sinh viên được chú ý tới hơn và phần nào được đãi ngộ khá hơn. Cả một phong trào thanh niên dưới sự lãnh đạo của Hải Quân Đại Tá Ducoroy đã được phát động từ Bắc chí Nam và luôn cả Miên, Lào. Lịch sử, tinh thần ái quốc của người Việt Nam cũng được khai thác và cổ võ. Vai trò của Hoàng Đế Nam Triều, lúc đó cũng được đề cao. Những bài hùng ca lịch sử nhờ đó đã có cơ hội xuất hiện và phổ biến. Ngườì ta có thể, theo một khuynh hướng tự nhiên coi những biện pháp này của người Pháp là có thâm ý không tốt, nhưng dù thế nào đi chăng nữa nó đã mở đầu cho một sinh hoạt mới của tuổi trẻ Việt Nam và đã ảnh hưởng tới nhiều phạm vi khác về sau này.
Theo như chính Lưu Hữu Phước, bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã được sáng tác vào một đêm tháng tư năm 1941 do ông khởi đầu, sau đó được các bạn cùng phòng “chúng tôi gọt giũa” và “cùng hát vang”[6]. Lời đầu tiên của bài này, có lẽ chịu ảnh hưỏng của những tuyên truyền về “Khởi Nghĩa Bắc Sơn” nên đã nặng tính tranh đấu và hận thù với những từ ngữ như lầm than, đau khổ, loài muông thú, hút máu, cửa nhà tan rã… và văn phong còn thô kệch vụng về, sau này mới được mọi người sửa lại. Cũng chính Lưu Hữu Phước kể tiếp: “bài hát bí mật của chúng tôi được anh em lấy làm bài hát sinh viên công khai. Anh em làm lại lời ca, và sau nhiều lần sửa đi sửa lại và đấu tranh với Sở kiểm duyệt, phong trào sinh viên đã có bài hát của mình tức là bài Tiếng gọi sinh viên (Lời ca của Lê Khắc Thiều và Đặng Ngọc Tốt) khi phong trào lan rộng bài hát được nhân dân tự động đổi là Tiếng gọi thanh niên.”[7] Nhưng đó là theo Lưu Hữu Phước, theo những tác giả khác trong đó có Giáo Sư Nguyển Ngọc Huy thì hơi khác. Dẫn theo lời của Bác Sĩ Nguyền Tôn Hoàn, đương thời là Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Đông Dương tức Đại Học Hà Nội, Giáo Sư Huy cho biết là nhân dịp Tổng Hội tổ chức một đêm ca nhạc vào ngày 15 tháng 3 năm 1942 tại Đại Giảng Đường của nhà trường, nhằm lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo ở các bệnh viện, nơi các sinh viên y và dược khoa thực tập, Tổng Hội lựa một bài ca lấy tên là Sinh Viên Hành Khúc với tiếng Pháp là Marche des Étudiants. Lưu Hữu Phưóc đã đưa cho Bác Sĩ Hoàn một số bản nhạc do ông soạn và bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã được lựa. Tiếp theo là một ủy ban sửa hay soạn lại lời ca gồm có các ông Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Phan Thanh Hoà, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Tăng Nguyên. Lời ca mà người ta có sau này là của tập thể của ủy ban sinh viên này.[8] Sau ngày 15 tháng 3, là mùa hè năm đó một đại lễ mãn khoá đã được tổ chức tại nhà hát lớn của thành phố, có Toàn Quyền Decoux và các quan chức cao cấp Pháp-Việt đến dự và khi ban nhạc của Hải Quân Pháp cử hành bài Sinh Viên Hành Khúc này, tất cả mọi ngườì, kể cả Toàn Quyền Decoux, đều đứng dậy.[9] Lưu Hữu Phước đã không nói tới những buổi lễ này dù cho chúng là những danh dự mà một nhạc sĩ bình thường phải coi là một niềm hãnh diện. Ông cũng không nói tới hai người nữ sinh viên là Nguyễn Thị Thiều, sau này là vơọ của Bác Sĩ Nguyễn Tú Vinh và Phan Thanh Bình, sau này là Bà Nguyễn Tôn Hoàn, là những ca sĩ đã hát bài của ông đêm tác phẩm của ông được chính thức ra mắt tập thể sinh viên và công chúng thời ấy. Phải chăng, khi viết hồi ký, ông đã sợ một điều bất ổn nào đó khi nói tới những vinh dự mà phía những người không phải là Cộng Sản dành cho ông và tác phẩm của ông, lúc bấy giờ và sau này khi Tiếng Gọi Sinh Viên trở thành Tiếng Gọi Thanh Niên, Tiếng Gọi Công Dân rồi Quốc ca của phía Người Việt Quốc Gia. Tất cả đều không được ông nhắc tới trong hồi ký của ông, ngay cả tên của Tổ Chức Thanh Niên Tiền Phong. Về phía Người Việt Quốc Gia, từ các nhà lãnh đạo Thanh Niên Tiền Phong đến Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, người đã đề nghị chọn Tiếng Gọi Sinh Viên làm quốc ca cho Chính Phủ Quốc Gia đầu tiên do Cựu Hoàng Bảo Đại thành lập và lãnh đạo và những người liên hệ không thể không suy nghĩ kỹ càng và không có lý khi làm quyết định này. Lưu Hữu Phước không phải là tác giả duy nhất của bài Tiếng Gọi Sinh Viên và bài này khi được ra mắt công chúng không những đã trở thành sở hữu chung của tổ chức sinh viên hồi ấy mà, dưới danh xưng chính thức là Sinh Viên Hành Khúc, còn là biểu trưng cho tinh thần và ưóc nguyện của toàn thể giới thanh niên đương thời. Từ Hà Nội nó đã được phổ biến mạnh mẽ ra toàn quốc, đặc biệt là ở miền Nam, ở Saigon và ở các tỉnh song song với các phong trào thanh niên thể thao Ducoroy, Hướng Đạo…Phải đọc những hồi ký hay những lời kể lại của các nhân vật đã từng sống ở miền Nam và đã từng tham gia hay bị lôi cuốn vào phong trào này hay của chính Lưu Hữu Phước người ta mới thấy được tầm phổ biến và sự quan trọng của bài Sinh Viên Hành Khúc, cũng như là các bài Bạch Đằng Giang, Lên Đường, Ải Chi Lăng… trong sinh hoạt thanh niên thời bấy giờ. Gió Mùa Đông Bắc của Bác Si Trần Ngươn Phiêu, “Nhớ Quê Hương” của Nguyễn Minh Hoài Việt, “Hồi Ký “của Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và sau này là các bài viết của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và của Giáo Sư Phạm Hồng Đảnh… đã nói lên điều đó. Tinh thần của những sinh hoạt này cho nguời ta thấy rõ một ý thức mới về sự thống nhất thể hiện qua sự trực tiếp khám phá ra qua những cuộc thăm viếng tiếp những di tích của lịch sử oai hùng của dân tộc của các sinh viên gốc miền Nam ở Đại Học Hà Nội, qua những cuộc thăm viếng tiếp những di tích ở chung quanh thành phố Hà Nội trong những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ trước, đã thành hình và đã trở thành căn bản của các cuộc đấu tranh của toàn thể dân tộc Việt Nam trong những năm kế tiếp. Độc lập luôn luôn phải đi đôi với thống nhất, bắt đầu là thống nhất lãnh thổ sau đó là thống nhất tinh thần dân tộc mà cả hai phía Cộng Sản và Quốc Gia đều đề cao không riêng trong sinh hoạt chính trị và quân sự mà luôn cả trong giáo dục, văn hóa và nghệ thuật nữa.

II. Trúc Hồ
Cũng giống như Lưu Hữu Phước, Trúc Hồ cũng sở trường về các bài ca lịch sử mang dấu vết của thời đại mình đang sống. Từ Bên Em Đang Có Ta (lời của Trầm Tử Thiêng), Một Ngày Việt Nam (lời của Trầm Tử Thiêng),Việt Nam Niềm Nhớ (lời củaTrầm Tử Thiêng), Cám Ơn Anh (lời của Trầm Tử Thiêng), Con Dường Việt Nam (lời của Anh Bằng), Con Rồng Việt Nam (lời của Việt Dũng), Thiên Thần Trong Bóng Tối, Đáp Lời Sông Núi… Trúc Hồ cũng đã cống hiến cho đám đông người hát và người nghe nhiều bài được họ nồng nhiệt đón nhận. Và cũng giống như Lưu Hữu Phước với Tiếng Gọi Sinh Viên, Trúc Hồ, với Đáp Lời Sông Núi, cũng có một bài kêu gọi anh em, đồng bạn của mình. Bài hát được phổ biến nhanh chóng từ một nơi xa xôi ở Hải Ngoại lời ca dội ngưọc trở lại quê hương Việt Nam của tác giả. Nhưng khác với Lưu Hữu Phước, Trúc Hồ không có đưọc sự may mắn của Lưu Hữu Phước. Sinh ra và lớn lên trong thời Pháp Thuộc nhưng Lưu Hữu Phước vẫn được sống một tuổi thơ an bình, hạnh phúc. Khi lớn lên ông lại được cha mẹ nuôi cho ăn học đầy đủ ở khắp các trường danh tiếng ở miền Nam rồi sau đó ra Hà Nội “du học”. Ở Hà Nội ông đã có những ngày thật đẹp và thật phong phú cho một thanh niên mới lớn, từ lâu khát khao trở về với quá khứ dân tộc qua những buổi du ngoạn cùng với các bạn đồng hương của mình trong những ngày nghỉ. Trúc Hồ trái lại chỉ có một tuổi thơ là tương đối hạnh phúc, được sống với cha mẹ, được cắp sách đến trường trong một nước Việt Nam độc lập và độc lập hoàn toàn ít ra là trong phạm vi giáo dục như bất cứ một đứa trẻ nào khác, dù cho đất nước của ông lúc này đã bị chia đôi và đang trải qua một thời gian chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Sau này trong bài Thiên Thần Trong Bóng Tối, ông đã ghi lại:
“Từ khi tôi chào đời, bập bẹ hai tiếng Việt Nam. Yêu quê hương qua từng trang sách, Hùng Vương, Phù Đổng rạng ngời.”
Biến cố Tháng Tư 1975 đã cướp đi tất cả. Trường cũ, thày cô ngày trước không còn như xưa nữa. Ngay cả cái tên trường ông theo học, Trường Petrus Trương Vĩnh Ký thân yêu, quen thuộc và là niềm hãnh diện của toàn thể dân chúng miền Nam cũng đã bị loại bỏ và bị thay thế bằng một cái tên Lê Hồng Phong lạ hoắc. Nhưng cũng may là, ngoài Trường Petrus Ký, Trúc Hồ còn có một trường khác, hay nhiều “trường” khác và nhiều thày khác mà ông không những cũng yêu mến không kém mà còn gắn bó hơn, bằng cách này hay cách khác theo học suốt đời. Đó là những trường nhạc, nơi ít ra ba vị thày đã không những hướng dẫn ông về chuyên môn mà còn giúp ông đứng vững để tiến tới trong thời kỳ dễ bị khủng hoảng và hư hỏng nhất của đời người. Đó là các nhạc sĩ và giáo sư âm nhạc nổi tiếng của miền Nam đương thời, các nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi, Hùng Lân và Đại Tá Trần Văn Tín, Chỉ Huy Trưởng ngành quân nhạc của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, sau này là nhiều thày cô khác, sau năm 1975, từ miến Bắc vào như Chí Vũ, Cao Lê Thuần và các thày mà bây giờ ông chi còn nhớ tên mà không nhớ họ như Thày Dung, Cô Diệu…, mà ông luôn luôn nhắc tới với những lời trìu mến, biết ơn.[10] Tất nhiên là còn nhiều vị thày hay các bậc đàn anh hay bạn bè khác. Nói cách khác, Trúc Hồ có rất nhiều thày, thày chính thức hay thày ở ttrường đời. Đây là điểm thứ hai Trúc Hồ may mắn hơn Lưu Hữu Phuớc vì Lưu Hữu Phước khi học tân nhạc chỉ là tự học qua sách vở hay bạn bè. Cuộc sống thiếu êm đềm của Trúc Hồ không ngừng ớ đó. Nó vẫn tiếp tục với cuộc vượt biên tị nạn của ông, vượt biên theo đúng nghĩa vượt biên giới của nó. Ở đây là vượt biên giới Việt Miên với tất cả những gì nguy hiểm và đầy hãi hùng của cuộc phiêu lưu, vô cùng liều lĩnh và vô vọng này . Tiếp theo là những ngày sống trong trại tị nạn, đúng ra là trại tù ở biên giới Thái Lan-Căm Bốt như là một trẻ em vị thành niên đi một mình, một “unaccompanied child” trong trại NW-9. Sau đó là cuộc sống không người thân ở bên Mỹ.[11] Tìm hiểu những bài hùng ca của Trúc Hồ, người ta cần phải để ý tới những yếu tố liên hệ tới cuộc sống đầy bão tố của riêng ông, đồng thời cũng là của toàn thể miền Nam và nhân dân miền Nam trong suốt thời gian này và những kinh nghiệm của riêng ông, những kinh nghiệm mà không phải bất cứ người tị nạn Việt Nam nào cũng có, ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại. Bên Em Đang Có Ta là một trong số những kinh nghiệm đó:

Bao nhiêu em bé thơ, như nụ hoa, dưới mặt trời
Cười hồn nhiên tung tăng hát vang, mừng nắng tươi.
Bao nhiêu em bé thơ, như nụ hoa dưới mặt trời,
Rời lòng nôi trong đêm gió mưa, ra biển khơi.
Mẹ yêu em thiết tha hơn mùa xuân trong cuộc đời,
Chờ nhìn con theo hoa hướng dương, tìm nắng tươi.
Cha yêu em thiết tha, mang gửi con cho tình người,
Mặc đại dương mênh mông khoác lên thân nhỏ nhoi.
Bên em đang có ta, hát về em tương lai xót xa,
Hát giùm em cơn mơ thiết tha, giấc mơ tuổi hoa.
Bên em đang có ta, thống thiết kêu vang lương tâm thế gian
Cứu vớt em rời khỏi ngày u ám, giữa trại giam.
Khóc trong lầm than, Khóc trong trại giam.
Khi con tim thế nhân, chưa thờ ơ, chưa lạnh lùng,
Thì cùng nhau đêm nay hát lên, lời hát chung.
Cho em tôi héo hon, đang ngửa tay xin tình người,
Dòng lệ rơi trên đôi má khô, trong lẻ loi.

Tại sao nhạc của Trúc Hồ lại vừa bi thảm, vừa hùng mạnh, vừa nồng nàn, tha thiết, xót xa và nhiều hấp lực đối với đám đông như vậy? Bỏ qua những yếu tố này người ta không thể nào cắt nghĩa được. Phải nhìn sâu vào hoàn cảnh và tâm tư của chú bé unaccompanied Trúc Hồ vào thời điểm lúc ở trong trại, được chính mắt thấy, chính tai nghe những thảm cảnh bi đát của những em còn nhỏ tuổi hơn mình và của thày giáo nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cũng vượt biên tị nạn như các em người ta mới phần nào thông cảm được.

III. Văn Cao
Tuy nhiên, so với Trúc Hồ, Văn Cao, tác giả của Tiến Quân Ca, sau này là Quốc Ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và hiện thời là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, còn bất hạnh hơn nhiều. Văn Cao, như ai cũng biết và cũng đều phải công nhận, mãi mãi là một trong những thiên tài về âm nhạc của Việt Nam. Ông đã nổi tiếng từ lâu trước khi viết Tiến Quân Ca qua những bài hát mà không riêng gì đương thời, mà luôn cả trong hiện tại, sáu bảy chục năm đã trôi qua, rất ít người Việt Nam yêu nhạc nào mà không biết và không yêu mến. Không những thế ông còn là một nhà thơ và một họa sĩ tài hoa nữa. Có điều hoàn cảnh đã đưa ông đến việc sáng tác Tiến Quân Ca là cả một bi kịch thê thảm nhất và đáng thương nhất trong lịch sử nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Văn Cao đã không tự mình sáng tác theo cảm hứng riêng của mình mà vì đã nhận lời của một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng Sản để làm bài này, rồi cũng từ đó ông vướng mắc vào hết hệ lụy này sang hệ lụy khác, kể cả chuyện ông đã lãnh súng, tham gia ban ám sát và đã nhúng tay vào những vụ giết ngưòi.[12] Lý do là năm đó, năm 1944, Văn Cao bị thất nghiệp, tranh triển lãm bán không được, lại gặp năm “trời rét hơn mọi năm” và khi “những ngày đói của tôi bắt đầu”. Câu chuyện đã được chính nhạc sĩ, hơn ba mươi năm sau, kể lại, nguyên văn như sau:

“Sau triển lãm Duy Nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được trưng bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh – nhà Khai Trí Tiến Đức – và được các báo giới thiệu, cũng không bán nổi. Hi vọng về cuộc sống bằng hội họa, tại Hà Nội không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy là người xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi cũng không thấy nói đến tiện nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi dó dù đã trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn…. Hàng ngày tôi nhờ mấy họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ phương tiện cho làm việc. Cuộc sống lang thang ấy không thể kéo dài nhiếu ngày. Muốn làm việc thì không có chỗ. Hà Nột lúc ấy lại đang đói.
“Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ mặc nguyên quần áo. Có đêm phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.”[13]
Đúng vào lúc đó thì Vũ Quí, người cán bộ Việt Minh thường theo dõi Văn Cao từ nhiều năm trước xuất hiện. Văn Cao kể tiếp:
“Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quí. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng Rừng và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một tiệm ăn. Ở đấy quyết định cuộc đời của tôi. Câu chuyện giữa chúng tôi hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
- Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định và công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.”[14]
Sau đó Vũ Quí đến tìm Văn Cao giao công tác. Công tác đó là:
- “Hiện nay, trên chiến khu thiếu bài hát, phải dùng những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng của chúng ta.” [15]

Đây là một việc làm hoàn toàn xa lạ đối với một nghệ sĩ như Văn Cao. Ông đã không được làm theo ý riêng và theo hứng khởi của mình mà phải làm theo đơn đặt hàng và để trả nợ với một đề tài không chứa đựng một điều gì quen thuộc. Ông chưa bao giờ lên chiến khu và chưa bao giờ thấy quân Việt Minh ở chiến khu mà phải nói tới chiến khu và quân Việt Minh ở chiến khu. Theo Văn Cao kể lại, ông đã làm bài hát này trong “không biết bao nhiêu ngày tại căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền” Hà Nội và trong đêm đầu tiên, sau khi đã đi lang thang dọc theo các đường phố quen thuộc với câu hỏi lúng túng trong đầu: “Phải làm thế nào đây?”, ông chỉ “viết được nét nhạc đầu”. [16] Điều này cũng dễ hiểu vì cũng như Lưu Hữu Phước, khi làm bài này ông không thể không nghĩ tới bài Quốc ca của nước Pháp, bài La Marseillaise. Bằng chứng là trong phần lời ông làm sau này có câu “Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước”, một câu tương tự như câu “L’étandard sanglant est levé” trong bài La Marseillaise. Điều tôi muốn nói lên ở đây là Văn Cao không làm bài Tiến Quân Ca trong một hoàn cảnh đầy vui tươi, hứng khởi như hoàn cảnh của Lưu Hữu Phước khi họ Lưu làm bài Sinh Viên Hành Khúc hay của Trúc Hồ khi người nhạc sĩ thuộc thế hệ một chấm rưỡi (1.5) ở Hải Ngoại làm bài Đáp Lời Sông Núi về sau này. Tạo nên nét nhạc cho đơn giản cho mọi ngưòi cùng hát đối với một thiên tài như Văn Cao không phải là chuyện khó. Lời hát đi kèm sao cho đúng ý của người đặt hàng mới chính là vấn đề. Trong hồi ký của ông, Văn Cao không cho biết là Vũ Quí khi giao công tác cho ông có chỉ thị cho ông biết là lời hát phải như thế nào hay không, từ ý tưỏng đến từ ngữ đươọc dùng, nhưng những tiếng như cứu quốc, chiến khu, sao vàng, đời mới, võ trang, Thái Nguyên, Đô Lương, Bắc Sơn…rõ ràng là những ngôn từ của thời đại. Ngưòi ta cũng không biết là Nguyễn Đình Thi, một cán bộ văn hóa cao cấp khác, tác giả của bài Diệt Phát Xít có ảnh hưởng gì tới Văn Cao hay không, nhưng hai người có gặp nhau theo lời kể của Văn Cao: “Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó.” Xướng âm nhạc điệu ở đây phải được hiểu là nhạc điệu thôi, không phải là lời. Còn Nguyễn Đình Thi thì sau này khi được Ngô Vĩnh Bình phỏng vấn vào tháng 3 năm 1985 “đã cười bảo: bài Diệt phát-xít thực ra chỉ diễn tả những khẩu hiệu, đường lối của Việt Minh lúc ấy.”[17] Đường lối này không thể khác hơn là đường lối đã được Trường Chinh vạch ra trong Bản Đề Cương Về Cách Mạng Văn Hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà Vũ Quí, Nguyễn Đình Thi hay cao hơn nữa là Lê Quang Đạo chỉ là những cấp thừa hành.[18] Nghi vấn này nếu được giải tỏa thì câu “Thề phanh thây uống máu quân thù” có thể hiểu là không phải của Văn Cao mà là của những người khác hay do ý của người khác. Một nghi vấn về một đồng tác giả của Tiến Quân Ca do tờ TPCN (người viết bài này nhất thời chưa rõ tên thực sự của tờ báo này là gì, không biết có phải là Tiền Phong Chủ Nhật hay không?) một dạo đã được nêu lên, căn cứ vào bản in đầu tiên do chính Văn Cao trực tiếp lo phần ấn loát. Nguyễn Thụy Kha đã hỏi lại chính Văn Cao qua một cuộc phỏng vấn vào năm 1993, một buổi sáng sau ngày mừng sinh nhật của Văn Cao, có thể phần nào giúp ta hiểu rõ hơn vấn đề này.

Câu chuyện đã được Nguyễn Thụy Kha ghi và người viết xin chép lại nguyên văn để người đọc thấy thêm được nhiều chi tiết quan trọng cũng như những hệ lụy khác:
“Nguyễn Thụy Kha: Thưa bác, có lẽ vì đêm đó quá vui, bác mệt.
“Văn Cao: Đúng, vui lắm. hình như tôi đã chọc anh nhiều. Song cuộc vui nao chẳng tàn. Cái buồn lưu cữu lại ập đến.
“NTK: Vâng! Cháu rất biết. Chúng ta đều là con người chứ có phải lằ gỗ đá đâu. Cũng vì vậy, hôm nay, cháu xin bác nói thêm với cháu và tất cả mọi người về cái buồn của bác trong thời gian này.
“V.C: Có gì đâu. Mọi việc vì tôi là tác giả Quốc Ca, anh ạ! Tự nhiên bây giờ sau 46 năm lại có tờ TPCN đặt vấn đề nghi vấn. Trong việc này, có những cái nhìn bị nhiễu từ kênh này sang kênh khác.
“N.T.K: Bác nói chắc đấy chứ? Kẻo lại mang tiếng cho dụng ý tốt của tờ báo.
“V.C: Tôi đã nói là chắc. Mà đã nói rồi nhưng rất tiếc là anh Xuân Ba, người đến phỏng vấn tôi kỳ trước không viết ra hết mặt báo. Trong việc này có ba sự thật:
“- Sự thật thứ nhất là: Tôi là ngưòi viết Tiến quân ca, điều ấy chỉ có tôi mới biết vì khi tôi sáng tác bài này trong bí mật, không ai được biết. Ai nói biết là bịa.
“- Sự thật thứ hai: Tôi đã có ý để anh Đỗ Hữu Ích đứng tên cùng là tác giả phần lời với mật danh Anh Dũng. Lúc ấy tôi lấy mật danh là Anh Thọ. Bài Tiến quân ca đầu tiên do tôi trực tiếp ấn loát ghi tác giả: Nhạc Anh Thọ, lời Anh Dũng. Tôi có ý để anh Ích trong bài Tiến quân ca có hai lý do:
“1. Lúc ấy tôi là bạn anh Ích và đang lấy tạm nhà anh Ích làm cơ sở hoạt động.
“2. Để anh Ích đứng tên chung có lợi ở chỗ nếu anh Ích có muốn phản bội thì cũng không dám vì đã trót đứng tên chung cùng với tôi. Đây là một phép trong hoại động bí mật. Buộc phải đề phòng mọi khả năng. Anh Ích quen rất nhiều hiến binh. Bài Tiến quân ca khi đó mới chỉ là bài ca của quân cách mạng. Người sáng tác bài ca là kề với cái chết bất cứ lúc nào. Tôi để anh Ích đứng chung bằng mật danh là để bảo vệ bài ca này.
“Nhưng đó là thời kỳ bí mật. Sau cách mạng khi anh Ích lập nhà xuất bàn Đỗ Văn thì lúc này anh đã tự chuyển ý sang: Nhạc Văn Cao, lời Đỗ Hữu Ích, kể cả khi anh vận động nhà in in ở Hải Phòng. Nó đã lột được bản chất xấu của anh Ích.
“Sự thật thứ ba là: Khi bài Tiến quân ca được công nhận là Quốc ca Việt Nam, nó được sự góp ý về nhạc của anh Đinh Ngọc Liên và Nguyễn Hữu Hiếu. Còn lời thì anh Tố Hữu đã sửa nhiều câu (xin để ý mấy chữ này). Nhưng khi Bác Hồ yêu cầu gặp tác giả Quốc ca thì chỉ một mình tôi (do anh Tố Hữu đưa đến gặp Bác. Vì thế, năm 1946 nhà nước in bài Tiến quân ca và Quốc ca trong hiến phápcông bố với toàn dân và nước ngoài là Văn Cao. Vậy báo Tiền Phong CN với lòng công tâm giúp đỡ anh Ích thì phải cùng anh Ích đấu tranh với nhà nước để đòi bằng được cho anh Ích, Tôi làm sao làm được việc đó…. Nếu Quốc hội đã chứng nhận tôi là tác giả Quốc ca thì tôi phải nghe và chấp hành. Khi ấy, kẻ nào nhận thêm vào tức là mạo danh tác giả rồi. Có ngồi với nhau cũng chả giải quyết được.”[19]

Qua những gì Văn Cao giải thích kể trên, ta có thể nói không phải dè dặt rằng bài Tiến Quân Ca là do Văn Cao làm với sự góp ý và luôn cả sửa chữa của nhiều người trong đó có Tố Hữu. Riêng Tố Hữu “đã sửa nhiều câu”. Cũng vậy tất cả đã được làm trong bí mật mà nếu không có chuyện Đỗ Hữu Ích đòi chia sẻ quyền tác giả thì Văn Cao đã không nói ra. Nói cách khác những gì Văn Cao nói ra chỉ là một phần của sự thật nhưng người ta vẫn có thể kết luận rằng Văn Cao không phải là tác giả duy nhất của bài Tiến Quân Ca nhất là về phần lời hát. Phần này đã được sự góp ý của nhiều người trong đó có Tố Hữu và Nguyễn Đình Thi, hai cán bộ cao cấp đương thời và về sau này. Ngay cả cái tên của bài hát, Nguyễn Đình Thi cũng có góp phần, đồng thời hai chữ Việt Minh trong câu “Đoàn quân Việt Minh đi chung lòng cứu quốc” là hai chữ được dùng lúc ban đầu, sau này mới được đổi thành Việt Nam. Việt Minh lúc ấy chỉ là một đảng, hay một mặt trận, còn nhiều đảng và mặt trận khác. Chính vì vậy bài hát khi được phổ biến mới bị những ngưòi chống Việt Minh nhái đi thành: “Đoàn quân Việt Minh đi xe nhà phất phới, dắt họ hàng làng nước ra làm quan”.[20]

(còn tiếp)
.

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"