Võ Long Triều
Có những quyết định, được thông
báo chính thức bằng bản văn qua báo chí, hay bằng lời nói qua truyền
thanh, truyền hình, và cũng có những quyết định không công khai tuyên
bố, nhưng qua thái độ và hành động hoặc sự quanh co tráo trở làm cho mọi
người phải hiểu rằng điều đó không được chấp nhận.
Một phụ nữ cắm nhang lên một ngôi mộ tại Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa. (Hình: Hoàng Ðình Nam/AFP/Getty Images) |
Cách thông tri của cộng sản Hà Nội về vấn đề hòa giải dân tộc là như vậy. Bằng cớ:
Ngày 7 tháng 10 vừa qua, Hà Nội không chấp nhận tìm kiếm số quân nhân
mất tích trong chiến tranh, kể cả quân lính Việt Nam Cộng Hòa, nên
Thượng Nghị Sĩ Jim Webb, chủ tịch Tiểu Ban Ðông Á-Thái Bình Dương tuyên
bố: Mỹ sẽ ngưng giải ngân khoản tiền viện trợ để tìm kiếm quân nhân mất
tích. Rõ ràng cộng sản Hà Nội vẫn nuôi mối căm thù dai dẳng kể cả đối
với người đã chết, đó là một thông điệp công khai, trong khi ngoài miệng
họ hô hào “lấy đại nghĩa dân tộc xóa bỏ hận thù.”
Tôi đã viết 3 lần về hòa hợp hòa giải. Lần thứ nhứt bài đăng trên báo
Tiếng Gọi Dân Tộc xuất bản tại Paris năm 1992, sau khi Tổng Bí Thư Ðỗ
Mười kêu gọi hãy quên quá khứ và “hòa hợp” để xây dựng quốc gia. Suốt
bài diễn văn ông Ðỗ Mười đọc trước đại hội người Việt Nam sống ở nước
ngoài, tổ chức tại Hà Nội, ông không hề đề cập đến hai chữ “hòa giải.”
Và mãi mãi cho đến ngày nay, chưa khi nào, và sẽ không bao giờ có một
tên lãnh đạo cộng sản nói đến hai chữ hòa giải nầy. Phải chăng là một
chủ trương cứng rắn vĩnh viễn không đổi thay?
Lần thứ hai tại Mỹ khi có một số người vì ngây ngô hay vì một lý do
thầm kín nào đó, bàn vấn đề “hòa hợp hòa giải.” Tôi viết bài: “Ðề tài
khó phân giải” đăng trên nhật báo Người Việt.
Lần thứ ba khi nghe hai vị, “có tên tuổi,” thảo luận với nhau trên
đài truyền hình đầu năm nay cũng về vấn đề hòa hợp hòa giải dân tộc,
nghe rất trái tai và sai lầm. Tôi phải viết một bài tựa đề “Vài suy nghĩ
về chiêu bài hòa giải hòa hợp” đăng trên 2 nhật báo Viễn Ðông và Người
Việt tại Orange County ngày 30 tháng 4, 2011, tôi có trích nguyên văn 6
điều sai lầm về cuộc thảo luận của hai chính trị gia đó và phê bình giải
thích cặn kẽ.
Ðồng thời tôi cũng có đưa ra 5 điều mà Hà Nội cần chứng tỏ thiện chí,
để cho những ai muốn nói đến hòa giải thì nên suy nghĩ. Trong số đó có 2
điểm mà tin tức gần đây cho thấy Hà Nội công khai và thẳng thừng bác
bỏ.
- Công khai phổ biến danh sách công chức quân nhân miền Nam đã bỏ
mình trong các “trại cải tạo” và chỉ nơi chôn cất họ cho gia đình nạn
nhân.
- Công khai trao trả nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho gia
đình các tử sĩ để họ tu sửa và chăm sóc mồ mả. Cộng sản Hà Nội nên khởi
sự hòa giải với nhũng người đã chết, nên xóa bỏ hận thù với người chết
trước khi kêu gọi người sống “lấy đại nghĩa dân tộc xóa bỏ hận thù.”
Lời tuyên bố của Nghị Sĩ Webb nói về người chết, khiến chúng ta phải
nhắc tới những chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh bảo vệ tổ
quốc tại đảo Hoàng Sa năm 1974. Nếu tổ quốc của cộng sản Hà Nội là Việt
Nam chứ không phải là Trung Cộng, thì bất cứ ai hy sinh tính mạng mình
để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ đều là tử sĩ vị quốc vong thân. Nhưng khi
ông LS Cù Huy Hà Vũ đề nghị dựng bia kỷ niệm hai trận đánh Hoàng Sa và
Trường Sa, trong đó có 54 tử sĩ VNCH, Hà Nội không nhận.
Rõ ràng hơn nữa là vấn đề “Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa.” Hành động
đầu tiên là Việt cộng cho giựt sập tượng Tiếc Thương trước cổng. Sau đó
là một sự trả thù man rợ bằng cách dùng súng bắn vào mặt những tấm hình
trên mộ bia, hay dùng búa đập phá Thánh giá, bảng tên, đóng đinh vào
mắt, v.v.. Tổng số mộ trong nghĩa trang ước khoảng trên 20 ngàn. Nhiều
nhân chứng cho biết trên 50% ngôi mộ bị đập phá, nghĩa là phải có một
chủ trương, một sự chỉ huy chớ không phải sự nóng giận phá phách của một
vài người mà con số lên trên 10 ngàn ngôi mộ. Trong khi đó, lại có một
đội quân canh chừng quản lý và họ xây nhà ở dưới chân nghĩa dũng đài.
Cấm không cho thân nhân người chết, hay bất cứ ai, đến tu sửa, thăm nom,
nhang khói!
Sự đập phá, cấm đoán cũng chưa thâm độc bằng chủ trương trồng cây,
biến nghĩa trang thành một đám rừng hoang của những cây sao, cây dầu,
cây muỗng... hiện đã cao hơn mười mấy thước có cây đường kính lên trên
30cm. Một thời gian xa sau này mồ mả tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rễ
cây xuyên qua, đội đất, nứt vỡ đổ nát. Nơi đây sẽ là một bãi tha ma giữa
rừng rậm. Một sự trả thù đầy thú tánh, ngược với tập tục và truyền
thuyết ông bà mình để lại: Ðó là sự đại kỵ khi mồ mả của ông cha bị rễ
cây đâm xuyên thì gia đình xào xáo, con cháu không thể phát đạt.
Có ai thấy một “nghĩa trang liệt sĩ” nào của Việt cộng được trồng cây
rậm rạp đâu? Có ai thấy một nghĩa trang nào trên thế giới trồng cây như
đám rừng không? Thì đây là một chủ trương tàn ác, giả mạo, kém văn minh
của bọn người mất nhân tính.
Khi ông Nguyễn Cao Kỳ xin cho phép tu sửa nghĩa trang quân đội, ông được hứa hẹn, nhưng thực tế cộng sản đã cho ông ăn bánh vẽ!
Sự kiện đó là một bằng chứng, lằn ranh Quốc-Cộng được tô đậm thêm
bằng sự căm thù vĩnh viễn. Cộng sản Hà Nội đối với người chết là như vậy
nói chi đến người còn sống.
Theo tập Hồ Sơ WikiLeaks, mà công ty Người Việt ấn hành bản Việt ngữ
trong tuần nầy, Nguyễn Tấn Dũng, lúc đó là phó thủ tướng, đã gặp Ðại Sứ
Burghardt. Ông đại sứ đề nghị Hà Nội cho Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ về
thăm quê hương. Nguyễn Tấn Dũng giận dữ trả lời rằng các viên chức cũ
Sài Gòn là “tội đồ” sẽ không bao giờ được chào đón trở về. Ðại Sứ
Burghardt tiếp tục yêu cầu Hà Nội cấp chiếu khán cho ông Kỳ về Việt Nam
để biểu hiện một sự giải hòa.
Chuyến đi của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ được truyền thông báo chí
trong nước quảng bá rầm rộ và bị phê phán gắt gao ở hải ngoại. Sự rò rỉ
của WikiLeaks chứng minh thái độ căm thù oán hận của Nguyễn Tấn Dũng nay
là thủ tướng cầm đầu chính phủ Hà Nội, dư luận cho rằng trên thực tế
ông có quyền lực nhứt, trên cả tổng bí thư và chủ tịch nước.
Ðến lượt nhóm Quốc Gia Nghĩa Tử Heritage, do Thiếu Tướng Kỳ khuyến
khích, về Việt Nam với sự nhiệt tình và hăng hái làm đơn công khai xin
phép được tu sửa mồ mả ông cha, họ liền bị Hà Nội dùng “chiến thuật đưa
đẩy” từ phó chủ tịch tỉnh Bình Dương sang quận Dĩ An, rồi qua ban quản
trị nghĩa trang, tại đây người ta lại chuyển về tỉnh Bình Dương và cuối
cùng sau ba năm trời theo dõi hầu hạ, bà phó chủ tịch quận Dĩ An cho
biết Trung Ương không đồng ý.
Những sự kiện trên đây đủ cho thấy cộng sản Hà Nội tô đậm lằn ranh
Quốc-Cộng bằng căm thù hằn học. Không khi nào trong đầu họ có ý nghĩ
“hòa giải.” Họ hô hào “hòa hợp” bởi vì họ cần những tay sai, hay những
hạng người có tư thế đánh bóng chế độ như hàng thần lơ láo Nguyễn Cao Kỳ
làm trung gian hòa giải theo đề nghị của người Mỹ. Người Mỹ không bao
giờ hiểu được sự thâm độc và tráo trở của cộng sản Bắc Việt nói riêng và
cộng sản quốc tế nói chung.
Cũng như cựu bộ trưởng Xã Hội VNCH, ông Phó Bá Long, năm 1992 về dự
đại hội, xin Hà Nội ban ơn Ðại Xá cho những người của chế độ cũ. Tôi
viết một thơ không niêm gởi ông Phó Bá Long, có đăng trên nhiều báo,
khuyên ông nếu xét mình có tội thì hãy xin ơn đại xá cho ông. Còn chúng
tôi, toàn thể quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa, không có tội lỗi gì
cả. Chúng tôi hãnh diện đã tham gia chống cộng sản Bắc Việt vì họ vâng
lệnh Bắc Kinh làm nghĩa vụ quốc tế đánh chiếm miền Nam và đang dâng, bán
cho quan thầy Trung Quốc.
Tôi nghĩ rằng cộng sản Hà Nội hãy hòa giải hòa hợp trước tiên với
toàn dân trong nước, đang căm thù chế độ các ông. Hòa giải với công nhân
đang bị bóc lột, lương không đủ sống. Hòa giải với dân oan bị cướp nhà
cướp đất không còn cách sinh nhai. Hòa giải với các tôn giáo bị bách
hại, đàn áp, cấm đoán. Hòa giải với trí thức bất mãn, đảng viên thức
tỉnh, với dân nghèo than oán. Trước khi Hà Nội hô hào: “Lấy đại nghĩa
dân tộc xóa bỏ hận thù” với chúng tôi các viên chức chế độ Việt Nam Cộng
Hòa.
Phần chúng tôi, đã lãnh hội triệt để chủ trương, chính sách nhất quán
của đảng và nhà nước của các ông là “căm thù dai dẳng” đối với người đã
chết! Vậy thì chúng tôi những người còn sống, sẽ không khi nào đề cập
đến những chữ “Hòa Giải Dân Tộc” nữa.
Trái lại chúng tôi kêu gọi toàn dân bằng mọi cách “hóa giải” độc tài
cộng sản, đoàn kết dân tộc để xây dựng lại đất nước và chống giặc Tàu
cộng xâm lăng.