Elisabeth Rosen | The Diplomat
Lê Quốc Tuấn chuyển ngữ
Đối với Việt Nam, vấn nạn nợ nần giúp nhắc nhở nhà nước cần giới hạn ảnh hưởng của mình vào thương trường.
Việt Nam có thể thấy mình khó đạt được mục tiêu tăng trưởng 5,8 phần
trăm trong năm nay nếu nợ xấu tiếp tục kiềm hãm nền kinh tế.
Ngân hàng trung ương đã có những động thái để làm giảm tỷ lệ nợ,
nhưng cũng phải cần đến các thay đổi về cấu trúc để đảm bảo sức khỏe của
nền kinh tế về lâu dài.
"Vấn đề nợ xấu sẽ không thể giải quyết được nếu không có sự công khai
và minh bạch trong việc phòng chống tham nhũng và tư bản bè phái," Vũ
Đình Ánh, nhà kinh tế có ảnh hưởng đã nói với tôi.
Tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam đã được dự kiến ở mức 4,84
vào cuối tháng sáu, tiếp tục gia tăng kể từ đầu năm. Và đấy chỉ là những
con số chính thức. Dịch vụ Đầu tư của Moody ước tính các khoản nợ xấu
ấy chiếm 10-15 phần trăm tổng số nợ - nhiều hơn gấp đôi số dự toán của
ngân hàng trung ương.
Không như các số liệu của ngân hàng trung ương, Moody tính cả các
khoản cho vay đặc biệt cần lưu ý và tài sản yếu kém vốn nên được xem là
nợ xấu. Dù từ năm ngoái, các ngân hàng đã phân loại các khoản vay theo
chuẩn mực này, nhưng hạn định đã phải hoãn lại ba lần khi ngân hàng lo
lắng rằng một con số tổng cộng bất ngờ cao vọt sẽ gây đổ vỡ các doanh
nghiệp; việc thực hiện đầy đủ hiện được định đến quý đầu của năm 2015.
"Việc thiếu dữ liệu này là một vấn đề chính. Không biết thực tế và
cấu trúc tỷ lệ nợ xấu, chúng ta không thể hiểu được vấn đề, "ông Ánh
nói.
Vấn nạn nợ đã gây thiệt hại cho nền kinh tế khi các ngân hàng buộc
phải dành nhiều vốn hơn là phát hành nhiều công nợ. Mặc dù ngân hàng
trung ương cắt giảm được lãi suất trong một số trường hợp, mức vay tại
Việt Nam chỉ tăng được 3,5 phần trăm ít ỏi trong nửa đầu năm nay.
"Các khoản nợ xấu ở Việt Nam là không đủ lớn để gây khủng hoảng kinh
tế nhưng đã ngăn nền kinh tế không thể hồi phục nhanh chóng, "Đinh Tuấn
Minh, cựu chuyên gia phân tích kinh tế tại Ngân hàng Quân đội cho biết.
Căn nguyên của vấn đề
Cũng như ở Mỹ và Trung Quốc, vấn nạn nợ của Việt Nam là do phần lớn
nguyên nhân từ bong bóng bất động sản vào cuối những năm 2000. Thôi thúc
bởi mong muốn thúc đẩy kinh tế của chính phủ, ngân hàng nhà nước đã đưa
ra các khoản vay dễ dàng cho các nhà đầu tư và phát triển. Khi kinh tế
chao đảo trong năm 2010 và giá nhà đất giảm mạnh, nhiều người đã không
trả được nợ.
Đa số những nhà phát triển này là liên kết của các doanh nghiệp nhà
nước, vốn ít có kinh nghiệm trong lĩnh vực bất động sản. Từ khi Việt Nam
giành được độc lập, chính phủ đã coi doanh nghiệp nhà nước là trụ cột
của nền kinh tế, một quan điểm được lặp lại trong hiến pháp cũng như
trong các tài liệu quan trọng khác của chính phủ. Đầu những năm 2000,
khi đất nước mở cửa ra với thế giới bên ngoài, các doanh nghiệp nhà nước
của chính phủ được khuyến khích để mở rộng hoạt động kinh doanh ra bên
ngoài khu vực kinh doanh chính của họ trong nỗ lực muốn cạnh tranh với
các đối thủ nước ngoài.
"Đảng và Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn nhà
nước như Sông Đà để vượt qua khó khăn và phát triển hiệu quả hơn", chủ
tịch nước Nguyễn Minh Triết đã phát biểu như vậy trong một chuyến thăm
công ty vào năm 2009.
Một trong những nền tảng của kế hoạch này là công ty vận chuyển
Vinashin. Trong bối cảnh ngày càng tăng về vận chuyển của nhu cầu toàn
cầu, chính phủ mở rộng phát triển công ty, thuyết phục ngân hàng nhà
nước và chính quyền địa phương cung cấp các khoản vay và nguồn nhân lực
cho Vinashin.
"Chiến lược của chính phủ là muốn xây dựng công ty này nhanh chóng
trở nên một siêu cường vận chuyển bằng cách bơm tiền vào nó. Trong vài
năm đầu tiên, chiến lược ấy có hiệu quả“, Lê Duy Bình, Giám đốc điều
hành công ty tư vấn Economica Việt Nam cho biết. "Chúng tôi đã nhận được
nhiều đơn đặt hàng từ các nước khác. Đối với chính phủ, thành công bước
đầu xác nhận rằng họ đi đúng hướng."
Nhưng khi chính phủ đổ nhiều tiền vào Vinashin, ngày càng rõ là giới
quản lý cao cấp của công ty không có kinh nghiệm đảm đương một nguồn lực
tài chính lớn như vậy. Các quyết định đầu tư kém của ban giám đốc điều
hành đã gây ra thiệt hại lớn. Trong năm 2010, Vinashin sụp đổ với hơn 4
tỷ nợ, hai năm sau đó, giám đốc điều hành công ty bị bỏ tù vì vi phạm
các điều lệ về quản lý kinh tế. Năm sau, 2013, cả cựu chủ tịch và tổng
giám đốc công ty quốc doanh Vinalines đều nhận án tử hình vì tội biển
thủ $474.000 trong các âm mưu chi trả quá mức cho một ụ sửa chữa cũ để
bỏ túi hàng triệu đô la.
"Tham nhũng là một phần của sự việc nhưng phần lớn là vì năng lực
quản lý", ông Bình nói. "Ta không thể quản lý các công ty lớn bằng sử
dụng phong cách quản lý cũ. Họ đã không biết phải làm gì với các nguồn
tài nguyên mình có, vì thế, đã đầu tư vào nhiều lĩnh vực: ngân hàng, bất
động sản, khách sạn và ngay cả xe taxi".
Năm 2012, chính phủ thông báo rằng doanh nghiệp nhà nước đã dự phần
trong 1,5 tỷ "chi tiêu sai trái." Công ty độc quyền Dầu khí Việt Nam
chịu trách nhiệm cho khoảng $8,5 triệu thua lỗ. Tương tự, chính phủ cho
biết, Tập đoàn Sông Đà, thông qua 85 chi nhánh, đã "lạm dụng" hơn 500
triệu trong việc biển thủ và thực hiện các đầu tư kém cỏi, nhiều chi
nhánh phải gánh chịu thiệt hại đáng kể trong việc xây dựng các nhà máy
xi măng, thép, nhà máy thủy điện và các loại cơ sở hạ tầng.
"Một số lượng lớn khủng khiếp của các vấn đề kinh tế Việt Nam có liên
quan với hệ thống chính trị", nhà kinh tế học Anh cho biết. "Giống như
Trung Quốc, Việt Nam chưa có thị trường khế ước tài chính (derivatives
matket) mà bạn có ở Mỹ và các nước khác. Hậu quả là, tăng trưởng kinh tế
phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng và khu vực nhà nước, vốn đã có
thua lỗ mất mát lớn. Các kết nối với khu vực nhà nước là nguyên nhân
chính cho các khoản nợ xấu của Việt Nam."
Doanh nghiệp nhà nước vẫn là khu vực lớn nhất của giới vay mượn và
chịu trách nhiệm cho một tỷ lệ rất lớn của nợ xấu trong hệ thống ngân
hàng của Việt Nam. Vì vậy, cải cách doanh nghiệp nhà nước là không thể
thiếu trong việc giải quyết vấn đề nợ nần.
"Kỷ lục của các hoạt động nghèo nàn và việc mở rộng tài sản không
mang lại lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước thật nản lòng. Ngân
hàng Việt Nam sẽ không thể nhìn thấy sự tăng trưởng trở lại của các
khoản nợ lành mạnh trừ khi sức khỏe của các doanh nghiệp nhà nước được
phục hồi" Gene Fang, phó chủ tịch, chuyên viên cao cấp Moody cho biết.
Giải quyết vấn nạn
Trong năm 2013, Việt Nam đã cố gắng giải quyết vấn đề bằng cách cho
ra đời Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC). Theo kế hoạch này, các
ngân hàng hoán đổi nợ xấu của mình cho VAMC để lấy trái phiếu đặc biệt
mà họ có thể sử dụng nhằm vay vốn ở ngân hàng trung ương. Đến đầu tháng
Bảy, VAMC mua được $2,4 tỷ nợ xấu.
Tuy nhiên, đây không phải là một giải pháp hoàn chỉnh: trong khi các
khoản nợ giúp các ngân hàng cân đối bảng thu chi tài chính, công ty quản
lý tài sản vẫn chưa nghĩ ra được cách giải quyết chúng. Có kế hoạch bán
các khoản nợ ra cho nhà đầu tư bên ngoài, nhưng rất ít tiến bộ đã thực
hiện được ở mặt trận này.
"Số nợ xấu gần giống như hai năm trước, và thái độ của chính phủ và
ngân hàng nhà nước cũng đã không hề thay đổi", cựu chuyên gia phân tích
Minh cho biết. "Họ nghĩ rằng khi nền kinh tế phục hồi, nợ xấu sẽ qua đi.
Chính phủ không muốn chi tiền ra. Việt Nam chỉ đơn giản là không có đủ
nguồn vốn".
Một giải pháp là sẽ bán nợ xấu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nguyễn
Quốc Hùng, Chủ tịch Hội đồng thành viên VAMC, nói với tờ Banking Times
rằng công ty đã nhận được quan tâm từ một số tổ chức và cá nhân nước
ngoài. Tuy nhiên, hầu hết các khoản vay đều có tài sản thế chấp là bất
động sản và pháp luật Việt Nam lại nghiêm cấm người nước ngoài (hoặc bất
cứ ai khác trong ý nghĩa này) không được sở hữu đất đai.
Hơn nữa, VAMC đã mua nợ từ các ngân hàng cao đến 80-90 phần trăm giá
trị, nghĩa là nhiều hơn so với mức các nhà đầu tư sẵn lòng mua.
"Họ 'các nhà đầu tư nước ngoài' có xu hướng chào giá thị trường cho
các tài sản đó, thấp đến mức 20-30 phần trăm của mệnh giá. VAMC xem các
đề nghị này hoàn toàn không thích đáng khi căn cứ vào giá trị các tài
sản", ông Andy Ho, Giám đốc đầu tư VinaCapital cho biết. "VAMC chỉ có
thể là một công cụ hữu hiệu để giải quyết các khoản nợ xấu khi nó sẵn
sàng đưa các khoản nợ ra bán ở mức giá tốt nhất và được thị trường chấp
nhận".
Dù có những bàn bạc để thay đổi các quy định, nhưng chính phủ vẫn
chưa muốn làm như thế. Theo phó giám đốc Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Nguyễn
Đức Kiên, cho biết: "Ngay bây giờ, tất cả mọi người dường như sợ phải
chịu trách nhiệm cho việc gây thiệt hại cho nhà nước, vì thế không ai
dám đưa ra quyết định bán bất kỳ khoản nợ nào ở giá thấp".
Về phía các cơ quan chức năng, sự do dự này không chỉ là vì thiệt hại tài chính. Đó là biểu tượng của sự mất kiểm soát.
"Chính phủ nhận ra rằng chỉ có các công ty nước ngoài mới có đủ nguồn
lực để mua nợ xấu. Nhưng có một nhóm trong chính phủ không muốn làm
điều đó", Minh nói. "Họ sợ rằng khi chính phủ bán nợ xấu cho các công ty
nước ngoài, các khu vực chính của nền kinh tế sẽ bị đặt dưới sự kiểm
soát của người nước ngoài."
Điều này sẽ đe dọa đến lợi ích của đất nước. Và việc thay đổi luật sở
hữu có nghĩa là cho phép các nhà đầu tư tư nhân được hưởng các quyền
tương tự như công ty nhà nước - là điều không thể tưởng tượng được.
"Chúng ta không thể mong đợi chính phủ thay đổi luật đất đai. Vì ngay
cả người Việt Nam cũng không được sở hữu đất đai. Tất cả đất đai thuộc
về nhà nước", ông Bình nói.
Bước phát triển
Giải quyết nợ xấu là một bước khởi đầu tốt. Ngoài ra còn phải khuyến
khích bước phát triển của việc cải cách các doanh nghiệp nhà nước. Một
số luật đang được xem xét để buộc các công ty nhà nước phải hoạt động
theo nguyên tắc thị trường và hạn chế việc họ đầu tư vào các khu vực
nguy hiểm. Tuy nhiên, chính phủ cũng cần phải giải quyết các vấn đề cơ
bản của cả doanh nghiệp nhà nước và khu vực ngân hàng bằng cách gia tăng
tính minh bạch và nới lỏng các hạn chế về quyền sở hữu cho người nước
ngoài.
Trong năm nay, chính phủ đã tăng cường tốc độ cải cách doanh nghiệp
nhà nước cũng như cổ phần hóa (tư nhân hoá). Các doanh nghiệp nhà nước
phi ngân hàng được yêu cầu phải rút vốn ra khỏi các khu vực nguy hiểm
như bảo hiểm, chứng khoán và bất động sản vào năm 2015; theo báo cáo của
ngân hàng thế giới, gần một phần năm các mục tiêu này đã đạt được vào
cuối năm 2013.
Chính phủ cũng đã đặt ra mục tiêu chào mời hơn 400 cổ phiếu doanh
nghiệp nhà nước (SOE IPO) vào năm 2015, mặc dù việc thành công của các
biện pháp này vẫn chưa chắc chắn. Trong đợt bán cổ phiếu đầu tiên của
năm nay, các doanh nghiệp nhà nước niêm yết - hầu hết trong số đó thuộc
về các lĩnh vực mang lại lợi nhuận như bất động sản và công trình công
cộng - chỉ bán được ít hơn một phần ba số cổ phiếu có sẵn. Mặt khác, các
nhà đầu tư dự kiến sẽ tranh giành cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước
có lợi nhuận như Việt Nam Airlines và công ty viễn thông khổng lồ
MobiFone khi chúng được niêm yết trong năm nay.
Tuy nhiên, tính minh bạch cũng phải là một yếu tố quan trọng của quá
trình cải cách. Hoạt động trong một môi trường không có sự giám sát bên
ngoài, các giám đốc điều hành doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện những
quyết định đưa đến một lượng nợ nần lớn. Một báo cáo kiểm toán của nhà
nước công bố trong năm nay cho thấy các công ty nhà nước đã "lạm dụng
trắng trợn các quy định". Dù quy định hiện nay yêu cầu các doanh nghiệp
nhà nước mỗi năm phải phát hành kết quả tài chính trên trực tuyến, nhưng
các công bố này vẫn còn thiếu trong cả cách tiếp cận lẫn các thông tin
hữu ích.
Sự thiếu minh bạch cũng là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực ngân
hàng, nơi các loại sở hữu chéo và việc cho vay liên ngân hàng vẫn gây ra
những rủi ro lớn. Vụ bê bối gần đây nhất trong các ngân hàng lớn là
việc bắt giữ ba cựu quan chức Ngân hàng Việt Nam gần đây vì gian lận 311
triệu theo một báo cáo kiểm toán của nhà nước cho thấy một số giới cho
vay đã có "các hoạt động đáng ngờ". Nhiều vụ việc trong số này là do sở
hữu chéo: có 35 ngân hàng thương mại tư nhân tại Việt Nam, nhưng ông
Bình ước tính rằng trong một phần ba trong số này, các bên liên quan
(stakeholders) với các lợi quyền khác sở hữu nhiều hơn tỉ lệ mà pháp
luật cho phép. Một kinh tế gia khác so các mối quan hệ rối rắm giữa các
ngân hàng với nhau như một "bát mì spaghetti".
Tạo ra một khuôn khổ pháp lý mới để nới lỏng các hạn chế quyền sở hữu
cho người nước ngoài cũng có thể giải quyết được vấn đề trong cả hai
lĩnh vực. Tiến bộ đã đạt được trong lĩnh vực này vào đầu năm nay qua
việc nâng cao mức sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng, nhưng còn phải
thực hiện nhiều hơn, đặc biệt là khi nói đến việc giải quyết nợ xấu. Dù
chính phủ sợ sự mất kiểm soát sẽ dẫn đến việc cho phép nhà đầu tư nước
ngoài tham gia vào lĩnh vực kinh tế trọng điểm, nhưng các hậu quả kinh
tế của việc không làm như vậy có thể còn nguy hiểm hơn. Ông Hồ của công
ty VinaCapital chỉ ra rằng sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm
1997-1998, khách hàng nước ngoài đã đóng một vai trò "không thể thiếu"
trong việc giải quyết nợ xấu cho các nước có liên quan.
Đối với Việt Nam, vấn đề nợ mang lại một bài học tốn kém nhưng quan
trọng là Nhà nước cần hạn chế ảnh hưởng trong lĩnh vực kinh doanh, đặc
biệt là khi nói đến việc quyết định cho vay của các tổ chức tín dụng.
"Nếu ai làm việc tại một ngân hàng nhìn vào bảng cân đối tài chính
của Vinashin để thẩm định thuần túy thương mại, họ sẽ không cho Vinashin
vay tiền", ông Bình nói. "Tuy nhiên, các ngân hàng đã không làm các
phép tính. Họ mù quáng chấp hành quyết định của chính phủ để làm cho
Vinashin trở một siêu cường trong ngành công nghiệp vận chuyển. Khi
Vinashin sụp đổ, chỉ qua đêm các ngân hàng sụp đổ theo".