Ngô Nhân Dụng
Quý vị phải lắng yên nghe bài Đèn Cù. Tự mình hát lên, hát cho thấm
thía vào lòng, cho những câu dân ca văng vẳng trong đầu trong khi đọc
Đèn Cù của Trần Đĩnh. Khen ai khéo vẽ (ối a) đèn cù. Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh… Voi giấy (ối a) ngựa giấy, vòng quanh nó chạy tít mù.
Đèn Cù, cũng gọi là đèn kéo quân, là một trong số đèn Trung Thu, đồ
chơi cho trẻ em và cho cả người lớn. Quý vị sẽ dần dần nhìn thấy hoạt
cảnh xã hội Việt Nam những hình nhân voi giấy, ngựa giấy tít mù nó chạy vòng quanh trên màn ảnh đèn cù trong hơn nửa thế kỷ. Trong đó có Trần Đĩnh. Một nhân chứng, một người tham dự trong đám Voi giấy (ối a) ngựa giấy lần lần hồi tưởng lại những cảnh cùng nhau chạy vòng quanh (ối a) tít mù.
Nhiều tác giả đã viết về xã hội miền Bắc Việt Nam dưới chế độ cộng sản,
dưới dạng hồi ký, tiểu thuyết, biện thuyết và lý luận, vân vân. Đèn Cù
nổi bật lên trong tủ sách đó. Nếu không phải là kho chứng liệu quan
trọng và đầy đủ nhất thì đây là cuốn sách đọc lý thú nhất. Rất nhiều
chuyện mới nghe lần đầu. Rất nhiều chuyện cũ được nhìn dưới con mắt
khác, thấy những khía cạnh chưa ai từng thấy. Quý vị sẽ cười, sẽ khóc,
sẽ thắc mắc, sẽ dằn vặt, thao thức, kinh tởm, giận dữ, sót thương, khi
bị cuốn theo những Voi giấy (ối a) ngựa giấy chạy quanh trong cái đèn cù.
Dưới cái tựa Đèn Cù, Trần Đĩnh gọi cuốn sách này là “truyện tôi.”
Đọc xong thì hiểu tại sao tác giả không gọi nó là một “hồi ký” hay “tự
truyện,” những loại văn quen thuộc khi người ta kể chuyện cuộc đời mình
đã sống. Cuốn sách không viết theo phong cách hồi ký hay tự truyện, khi
người viết có sẵn một bản đồ để viết theo, một mục tiêu muốn đạt tới.
Đây cũng không phải là tiểu thuyết, tác giả không kể những chuyện mình
tưởng tượng ra. “Truyện tôi” là một thể loại văn suôi mới, do Trần Đĩnh
tạo ra. Mai mốt có thể sẽ không còn ai viết “truyện tôi” nữa. Mà có ai
viết thì chăc chắn cũng không viết giống như Trần Đĩnh. Đèn Cù là một
cuốn sách độc đáo.
Trần Đĩnh vốn là một thi sĩ, loại người thích sáng tạo ngôn ngữ, bầy
đặt, đùa rỡn, vui chơi với ngôn ngữ. Đẽo gọt, mài rũa, “như thiết như
tha, như trác như ma,” rùng mình sảng khoái hay quằn quại đau khổ với
ngôn ngữ. Trước khi gia nhập tòa soạn báo Sự Thật, ở chiến khu
Việt Bắc vào năm 1949, tuổi 19, ông đã viết báo rồi. Nhưng cuốn sách này
tuyệt nhiên không dùng lối văn viết báo. Nhà báo không ai mở đầu một
bài bằng mấy chữ: “Viết này vất vả,” rồi chấm câu. “Lười là rõ,” lại
chấm câu. Cái khí văn đó tràn suốt tác phẩm. Có thể gọi đó là Khí văn
Trần Đĩnh. Cũng như chúng ta có thể nhận ra Khí văn Phùng Quán, Khí văn
Thanh Tâm Tuyền, vân vân, các thi sĩ có lúc viết văn suôi. Nó riêng
biệt, văn đó đúng là người, mỗi người một vẻ.
Nhưng Trần Đĩnh vẫn giữ nguyên cái đức của người viết báo, là kể sự
thật, kể những chuyện thật. Ông dùng một lối viết mà đọc tới đâu người
ta cũng cảm thấy ngay: Đây là những chuyện thật, sự thật được bày ra, sự
thật ròng, như thịt xương còn sống, tàu lá còn xanh, như gỗ mộc không
sơn phết. Những suy tư, thao thức của tác giả được trình bày riêng, bên
ngoài các sự kiện. Người viết không thêm thắt tình cảm, suy tư, phê
phán, như thêm mắm muối, tiêu, hành, vào cho món ăn thêm mùi vị. Như khi
ông thuật lời nhà báo Tiêu Lang đã chứng kiến cảnh mấy anh du kích đặt
cái xác bà Nguyễn Thị Năm vào áo quan, áo quan nhỏ quá không vừa. Mấy
anh bèn đứng lên trên xác bà đẩy cho lọt xuống. “Nghe xương kêu răng rắc
mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ.” Hay khi ông kể
chuyện về họa sĩ Phan Kế An, một trong bốn năm người cùng phụ trách báo
Sự Thật lúc đầu. “Một dạo Phan Kế An ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều
về sớm hơn, An nói: À, cái Z. tự nhiên mang ba lô, chăn chiếu đến chỗ
Ông Cụ, tớ được xua về sớm. Vài tháng sau, An lại về muộn. Hỏi vì sao
thì An nói không thấy Z. đến nữa. Chắc ‘máy’ cụ yếu, giải đáp thuần túy
sinh học. Không tính đến sở thích, ‘gu’ của cụ.” Trần Đĩnh cũng nhớ
trong lớp học “chuẩn bị cải cách ruộng đất” tháng Bảy năm 1953, “Cụ Hồ
đến giảng cách nhật, có lúc cụ đùa hô lên trong hội trường Hồ Chí Minh
Muốn Nằm!” “Rồi tay chỉ vào đầu [nói]: Từ đây thì Bác già, nhưng từ đây
(tay chỉ vào bụng) thì Bác trẻ.”
Trần Đĩnh kể chuyện vợ nhà thơ Lê Đạt, ông bị đưa đi lao động “cải
tạo” vì tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Người đàn bà mang tội là “vợ
Nhân Văn”... bị “cơ quan, tập thể liên tục ép bỏ chồng” nhưng bà không
bỏ…” [N]hững đêm giá buốt Thúy diễn kịch ở Hải Phòng, Đạt từ chỗ lao
động cải tạo xuống tìm vợ. Không có giấy chứng minh nhân dân, Đạt không
thuê được nhà trọ, hai đứa ngồi ghế vườn hoa suốt đêm nghe còi tàu thủy
hú thi với gió biển.” Một câu văn ngắn cho chúng ta sống cả một đêm dài
nghe tiếng tầu thủy vang vọng trong tiếng gió hú. Tác giả đóng vai một
nhân chứng, một người quan sát, chỉ thuật lại những gì mình nghe, mình
thấy. Thời sau chiến tranh, báo Nhân Dân có cuộc họp năm sáu chục người
“ôn lại thành tích tuyên truyền chiến tranh chống Mỹ. Nguyễn Sinh, xưa
phóng viên thường trú Vĩnh Linh, Vĩnh Mốc lên nói. Lại tố cáo những
chiến công giả người ta gán cho Mẹ Suốt, Trần Thị Lý sông Lấp Quảng
Bình. Sông đã lấp thành tên [tên Sông Lấp] mà nhà báo cứ ca ngợi cô Lý
oằn lưng chèo lái… Hầu hết nghe đều cười. Tự giễu và rộng lượng. Nhưng
khi Sinh nói ở Vĩnh Linh, anh đã chứng kiến người bên kia bị ta bắt sang
chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt, tôi lại thấy mọi người mặt lạnh
tanh.” Thêm một chuyện ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản đã nổi
tiếng đóng góp nhiều vàng cùng với nhà cửa trong “Tuần Lễ Vàng” thời
trước kháng chiến. Sau chiến tranh bà Lợi Quyền vẫn còn một ngôi nhà tại
Hà Nội. Đầu thập niên 1980 “được ban Tuyên Huấn Trung ương đến hỏi. Chê
đắt [không mua]. Đùng một hôm xe tuyên huấn chở mấy bao tải tiền đến
mua, đắt cũng được. Ba ngày sau đổi tiền.” Tác giả ghi thêm: “Tố Hữu
[phó thủ tướng đổi tiền], nguyên trưởng ban tuyên huấn đã hạ thời cơ
tuyệt hảo...” Và ông nhắc lại bài Quốc Tế Ca hát rằng: “Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình!” Phê: “Quá giỏi!”
Ở văn phòng mới dọn đến của Tổng bí thư mùa thu 1949. Hàng đầu toàn ngồi xổm, từ trái qua, vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh. Ngoài cùng bên phải là Trường Chinh, áo blu dông Mỹ trắng. Hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân Trường, thư ký tòa soạn báo - (hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Đèn Cù đầy rẫy những “đoạn phim” ngắn như vậy. Rất nhiều “clip” chợt
hiện trên màn ảnh trong nửa phút, rồi chuyển ngay sang cảnh khác, liên
tiếp chạy nhanh qua não bộ. Đoạn phim lưu đọng trong óc mình mãi mãi,
trộn lẫn cùng những đoạn phim ngắn khác, không theo thứ tự thời gian,
cũng không theo một dòng lý luận nào. Tất cả cho người đọc một toàn cảnh
sống động về xã hội nước Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ, trước và sau
khi tác giả đặt bút viết cuốn sách để đời này. Tất cả là “truyện tôi.”
Nếu không có cái tôi sống, tôi quan sát, tôi rung động, tôi ghi nhớ, tôi
suy nghĩ, thì không có “truyện tôi.” Trong trí não con người đời sống
vốn không có trật tự, nó chợt hiện, chợt tắt, ngổn ngang, chắp nối,
không xếp đặt theo không gian cũng không theo dòng thời gian đơn tuyến
và trực tuyến. Đời sống thật vẫn như vậy. Đó là cảnh Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh. Cho
nên Đèn Cù là một tác phẩm nghệ thuật. Đây là một sáng tác văn nghệ.
Thử tưởng tượng có một người trước khi đọc không hề biết gì về bối cảnh
lịch sử ở nước Việt Nam, chưa bao giờ nghe tên những nhân vật như Nguyễn
Tư Nghiêm, Văn Cao, Lê Đức Thọ, Hồng Linh, Thép Mới, Lê Trọng Nghĩa, Hồ
Chí Minh, Lê Đạt, Tô Hoài, Hồng Hà, vân vân; khi đọc Đèn Cù người đó cứ
nghĩ đây là những nhân vật hoàn toàn do tác giả bịa ra. Độc giả nghĩ
Trần Đĩnh sáng tác một cuốn truyện, sẽ thấy Đèn Cù là một thể loại tiểu
thuyết mới, rất mới.
Tại tòa soạn báo Sự Thật: (từ trái) Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ (sau này tự tử ở bệnh viện Nam Ninh, Trung Quốc)- (hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Suốt cuộc đời cầm bút (ông mới tập dùng máy vi tính khi đã về già),
Trần Đĩnh nói, “Tôi vẫn mong rồi có một quyển sách thật sự của tôi, của
chính tôi.” Bởi vì, gần suốt cuộc đời viết, lách “tôi đã tự nguyện làm
thủ phạm tàn phá trước hết vào chính ngay mình. Tôi vốn yêu viết. Nhưng
đã không viết nổi. Đứa thủ phạm là tôi bắt tôi viết dưới bóng tối của
Thù Hằn và Dối Trá...”
Trần Đĩnh biết rất nhiều chuyện. Trần Đĩnh coi Trường Chinh là thầy trong nghề báo, được ông tổng biên tập báo Sự Thật
(Trường Chinh) dậy từng chữ khi anh nhà văn 19 tuổi mới vào trong A Tê
Ka (An Toàn Khu), năm 1949. Anh ngủ chung lều với Lê Quang Đạo, nhiều
lần phải hất tay Lê Quang Đạo ra, và nghe lời xin lỗi, “Chúng tớ ở tù
lâu ngày sinh hư.” Anh ngồi sau lưng Hồ Chí Minh trong buổi lễ truy điệu
Stalin chết; nhìn cảnh Tố Hữu diễn vai đau khổ ôm bức hình Stalin đặt
lên ban thờ, sau nay nghĩ có lẽ ông ta khóc Stalin là khóc thật. Rồi
nhìn thấy hộp thuốc lá Trung Hoa Bài do Hồ Chí Minh bỏ quên trên ghế bên
cạnh, anh cầm lấy mang đến tận phòng, “Dạ, thưa bác, Bác để quên ạ!” Và
nhìn thấy “Mặt cụ xưng lên, đầm đìa nước mắt, hai mắt húp lại... Cụ ngơ
ngẩn nhìn tôi, nhìn hộp thuốc lá như không hiểu tôi vào làm gì...”
Trong lớp chỉnh huấn chuẩn bị cải cách ruộng đất năm 1953, một hôm “Cụ
Hồ nói: Các chú các cô không sợ người ta kêu mình kém trí thức, ít lý
luận. Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú tôi khôn. Chú tôi là
Stalin, Mao Trạch Đông…” Trần Đĩnh chắc là người đầu tiên tiết lộ Hồ Chí
Minh đã tới quan sát cuộc đấu tố đầu tiên ở Đồng Bẩm, hóa trang che bộ
râu để không ai nhận ra. Và Trường Chinh thì đeo kính đen tới dự, để rút
kinh nghiệm mà rèn luyện các đội cải cách đấu tố cho đúng tiêu chuẩn
thù ghét. Xưa nay nhiều người vẫn kể rằng Hồ Chí Minh không muốn giết bà
Nguyễn Thị Năm, nhưng bị cố vấn Trung Cộng ép buộc nên phải giết. Trần
Đĩnh đưa ra một bài báo ngắn do Hồ Chí Minh viết kết tội đích danh bà
Năm đồng thời đả kích cả giai cấp địa chủ. Bài báo này, được dẫn chứng
đầy đủ, dùng một bút hiệu, ký tắt, cho nên chỉ người bên trong tòa báo
mới biết người viết là Hồ Chí Minh. Trần Đĩnh cũng là tác giả đầu tiên
đã gặp cô Xuân (nhân vật đã được Vũ Thư Hiên kể trong Đêm Giữa Ban Ngày)
ở trên chiến khu từ năm 1953, cô là “Con nuôi Bác.” Có lúc Trần Đĩnh đã
nắm tay cô Xuân, khoe đã lấy tên cô làm bút hiệu viết trên báo. Ông
cũng kể chuyện đi theo Hồ Chí Minh dự mít tinh rồi “đi lượn phố, thăm
trường học” ở Móng Cái, năm 1960. Hồ viết lên bảng một chữ Hán “nhân,”
rồi hỏi: “Trây sấn mà chề” nghĩa là “Đây là chữ gì?” nói bằng
tiếng Khách Gia, Hakka, miền Nam gọi là tiếng Hẹ; là thổ ngữ của người
gốc Hoa ở địa phương này. Tác giả thắc mắc, “tại sao đến đây Cụ đi chơi
phố nhiều như thế? Khéo [cụ] đã ở đây thật?” Và có lúc đi trong phố “Cụ
chỉ vào một ngôi nhà phía bên kia đường nói với tôi, đi bên cạnh: Ở nhà
này ngày xưa có một chị bí thư chi bộ. Tôi ngợ ngay. Có quan hệ tình cảm
gì [giữa cô đó] với Bác?” Trần Đĩnh là người đầu tiên cho biết đã nghe
Hồ Chí Minh nói thông thạo tiếng Hẹ, và đoán rằng ông đã hoạt động cùng
các đảng viên cộng sản ở Móng Cái từ thời trước. Chưa có một tác giả hay
một người nghiên cứu lịch sử nào biết đến chi tiết này. Độc giả sẽ
không ngạc nhiên khi đọc những tình cảm thân mến của tác giả với nhân
vật Hồ Chí Minh; vì đã sống rất gần gũi trong nhiều năm. Trong lần đi
thăm khu gang thép Thái Nguyên, “Sau bữa cơm trưa, thấy Cụ quần áo cánh
nâu đi vòng ra sau dẫy nhà tranh đến rặng chuối thay hàng rào, tôi đi
theo. … Thấy tôi gần như ở ngay bên, cụ quay ngoắt lại hỏi, điếu thuốc
khẽ lật bật ở môi: ‘Người ta đái cũng theo à?’ ‘Không ạ, cháu …!’ ‘Thế
đứng sát vào người ta nhòm gì?’” Rồi Trần Đĩnh kể tiếp, “Chiều ấy,
khoảng bốn giờ về tới chủ tịch phủ, tha thẩn ở sân chờ lấy xe đạp … bất
thần chợt nhớ đến Xuân, cô con gái nuôi của Bác. Hỏi mấy người đứng tuổi
nom có vẻ quen từ trên rừng. A, cô Xuân ấy hả? Lấy chồng rồi. Chồng lái
xe. Nhưng chết rồi. … bị ô tô đè …” Trong chương chót, Trần Đĩnh nêu
một nhận định chung về Hồ Chí Minh: Lòng trung của Hồ Chí Minh đối với
Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông là vô bờ. Cho nên lòng trung với nước
Việt, dân Việt vơi đi.
Người thứ hai mà Trần Đĩnh có lòng cảm mến là Trường Chinh. Năm 1962
Trường Chinh đã nhờ Trần Đĩnh viết hồi ký, nhắc lại từ những ngày đi
họp ở Pắc Bó năm 1941, với ý định dùng quá khứ vinh quang “phất một ngọn
cờ tập hợp” phe mình. Nhưng sau đó tập hồi ký không dùng đến vì biết
mình đã thua hẳn phe cánh Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh rồi.
Nhiều người cũng muốn nhờ, vì Trần Đĩnh nổi tiếng khi viết hồi ký giúp
cho người khác. Anh kể chuyện những người tù Côn Đảo, văn sống và khích
động, như chính anh đã trải qua các gian khổ đó. Cuốn Bất Khuất (viết
năm 1965) kể chuyện Nguyễn Đức Thuận, một người tù Côn Đảo tranh đấu
trong tù, được đưa ra ngoài Bắc. Lê Đức Thọ, Tố Hữu, Hoàng Tùng chủ
trương dùng câu chuyện Nguyễn Đức Thuận để tuyên truyền khích động cho
người miền Bắc ủng hộ cuộc tấn công vào miền Nam. Viết Bất Khuất,
cái tên do Tố Hữu đặt, Trần Đĩnh không ký tên, tiền nhuận bút cũng
nhường cho Thuận. “Vì không thích nói dối.” Nhưng được những độc giả như
Trần Dần khen thì vẫn thích: “Mày viết cái Bất Khuất ấy, tao thích cái grammaire.”
Nguyên Hồng thì bậm môi, vuốt râu nói: “Mày, Trần Đĩnh à, mày có tâm
hồn, mày có nghệ thuật nên mày viết cái ấy cho Thuận hay.” Một lần năm
1960 gặp Vũ Kỳ (thư ký riêng của Hồ Chí Minh): “Vũ Kỳ bảo tôi sẽ cộng
tác với anh viết hồi ký về Bác ‘khi Bác hai năm mươi.’ Viết xong tiểu
sử, tôi (Trần Đĩnh) gửi lên cho Cụ một bản để duyệt. Cụ chữa từng trang.
Có những đoạn viết ra ngoài lề: Xem lại? Hỏi lại? Bản thảo này tôi
giữ.” Sau đó sách in ra, “Mừng tiểu sử chính thức đầu tiên của Hồ chủ
tịch ra đời, Tố Hữu khao một bữa thịt chó thịnh soạn tại nhà” (Tố Hữu
được lãnh nhuận bút 200 đồng vì có công đọc và kiểm duyệt, người viết
chỉ được 400 đồng; còn “Huy Tưởng, Hoài Thanh chả [được] tẹo nào).
Trần Đĩnh cũng viết hồi ký cho Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm (một
trong vài ba đảng viên cộng sản đầu tiên). Lê Đức Thọ cũng có lúc muốn
nhờ. “Cậu viết giỏi lắm, tớ rất thích. Không ở tù mà viết y như thằng đã
ở tù… Tớ sẽ nhờ cậu viết hồi ký cái đoạn tớ chuẩn bị tổng khởi nghĩa
rất hay.” Và Thọ hứa hẹn sẽ đem Trần Đĩnh theo phái đoàn sang Paris đàm
phán. Sau Trần Đĩnh không viết, “Hú vía!” Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy
Trinh nhờ viết hồi ký, đều từ chối. Trần Đĩnh làm việc gần với các lãnh
tụ cộng sản Việt Nam từ năm 19 tuổi, cho nên biết nhiều chuyện. Như đến
nhà Sáu Thọ, ngồi ngoài sân bên cạnh cái hầm tránh bom, thì nhận ra cái
hầm này sâu 10 mét, trong khi cái hầm nhà Lê Thanh Nghị (anh đã nhiều
lần xuống ẩn trong hầm này), chỉ sâu có tám mét, dù cả hai đều trong Bộ
Chính Trị. Gần gũi họ, cho nên mới biết cảnh trong nhà Lê Đức Thọ một
ông tướng chào Sáu Thọ xong, bước ra về mà cứ thế đi giật lùi, đến nửa
cái sân mới dám quay lưng rồi tiến ra cổng. Nhìn mặt, thì ra Lê Đức Anh.
Trần Đĩnh sống trong cái đèn cù đó, trong lòng không yên. Anh bắt
đầu nẩy mối bất nhẫn trong lòng khi chứng kiến những tội ác trong cuộc
cải cách ruộng đất. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào đảng, tin vào những động
cơ tốt của các lãnh tụ. Chuyển biến tâm lý mạnh nhất phát sinh trong
năm năm du học ở Bắc Kinh, sống qua thời kỳ các phong trào bước nhảy
vọt, đánh hữu phái, công xã nhân dân, vân vân, từ 1955 đến 1959. Trong
thư viện Đại học Bắc Kinh, một góc bày các sách cũ tiếng ngoại quốc, anh
được đọc cuốn “Từ số không đến vô định” của Arthur Koestler; câu chuyện
một người bị Stalin bỏ tù. Anh cũng được đọc báo Le Monde trong thư
viện đại học, và biết chuyện tố cáo tội ác của Stalin trong đại hội thứ
20 đảng Cộng sản Liên xô. Nhưng ảnh hưởng quan trọng nhất là do anh sống
bên người Trung Hoa, anh trực tiếp gặp nhiều sinh viên cùng tuổi, được
nghe, được thấy, để biết chế độ Mao Trạch Đông giả dối, tàn bạo và coi
khinh mạng sống dân chúng như thế nào. Khi Mao Trạch Đông cho phép “trăm
hoa đua nở” báo Nhân Dân (Bắc Kinh) cũng đăng những bài phê phán đích
đáng, mở mắt anh du học sinh người Việt “được thấy trí thức Trung Quốc
sôi sục chống đảng.” Quan sát thực tế, lại thấy “dân Trung Quốc khốn khổ
vì đảng.” Cho nên, “Tôi bắt đầu ‘hư hỏng’ (nghi ngờ đảng) vì đã nhận ra
chân tướng đại bịp. Người ta lừa bịp đại trà được là nhờ khai thác
những bản năng thấp kém của con người: Sợ và tham.” Từ đó, Trần Đĩnh
chống Mao, kinh tởm Mao, sau khi về nước vẫn tiếp tục. Vì thế anh là đối
thủ của đám các đồng nghiệp thần phục Mao trong báo Nhân Dân, mà anh
gọi là bọn “Mao nhều.” Kiểu như Hồng Hà, người từng nghẹn ngào
nói như mếu: “Tôi xin cảm ơn Mao Chủ tịch vĩ đại đã mở mắt ra cho tôi
thấy Liên xô, Kroutchev là phản bội, đầu hàng, xét lại…”
Trần Đĩnh ghê sợ âm mưu lợi dụng của Mao Trạch Đông, vì nhớ mãi câu
ông ta nói: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ.” Chủ trương này dẫn
đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Mao chấp nhận chiến tranh nguyên tử. Tại
Bắc Kinh, Trần Đĩnh được hai người bạn Trung Hoa làm báo tiết lộ về
cuộc họp chi bộ trong Văn Nghệ Báo để nghe chỉ thị tối quan
trọng. Hai anh kể, chỉ thị được ban xuống cho dân Trung Quốc thấu triệt
là họ không phải sợ bom nguyên tử. “Vì dù Mỹ có ném xuống một nghìn quả
bom nguyên tử, dẫu trái đất có bị tàn hoang đi nữa thì ít nhất cũng còn
sót lại một huyện dân Trung Quốc, huyện ấy sẽ ương lại giống người trên
trái đất này.” Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ. Cho nên Mao muốn
phát động chiến tranh, “đánh Mỹ tới người Việt cuối cùng.” Mao cũng muốn
đứng đầu phong trào cộng sản thế giới, sau khi thần tượng Stalin bị đàn
em lật đổ. Lê Duẩn ngả theo chủ trương Mao; ghét những người muốn theo
Cộng sản Nga muốn chung sống hòa bình với Mỹ và giảm bớt ách độc tài
trong nước. Lê Duẩn từng ca ngợi Mao Trạch Đông là “Lê Nin của thời đại
ba dòng thác cách mạng châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh.”
Đối nội, Duẩn tạo ra vụ án “xét lại, chống đảng;” đánh vào những
người bị coi là thân Liên Xô. Lần đầu chỉ đánh giằn mặt bằng phê bình,
kiểm thảo. Năm sau Chu Ân Lai sang Hà Nội phổ biến tin tức Mao đánh các
đồng chí lãnh tụ trong đảng của ông ta rồi, Duẩn mở chiến dịch thứ hai,
tống giam hết cả đám. Giống như đem họ ra làm vật “thế chấp” để được Mao
ủng hộ. Trần Đĩnh cũng bị nghi ngờ, bị hạ tầng công tác, bị bắt giam và
hỏi cung. Có lúc anh hãnh diện kéo chiếc xe hai bánh “diễu hành giữa
thanh thiên bạch nhật, ở trung tâm Hà Nội, tươi tỉnh đi trình đường phố,
nhận minh bạch đường hoàng mình chống đảng.” Lê Đức Thọ gọi Trần Đĩnh
tới, kể tội đám xét lại cho nghe: “Vừa ở Paris về nghe an ninh nó nói
cậu dính vào vụ chúng nó tớ... tiếc lắm... Tớ đã nói là tớ mến cậu vì
cậu trẻ, cậu có tài...”
Đối với bên ngoài, Lê Duẩn bám sát chủ trương của Mao gây cuộc chiến
tranh xâm chiếm miền Nam. Theo Trần Đỉnh thì Hồ Chí Minh và Võ Nguyên
Giáp không muốn đánh, nhưng không chiếm được đa số nên chịu phục tùng.
Khi cuộc Cách mạng Văn hóa gây lo lắng Trung Quốc sẽ loạn lớn, Lê Duẩn
thấy phải đánh ngay, đánh trước khi Bắc Kinh tan vỡ không còn chỗ dựa.
Cho nên mở cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Sau này, Lê Duẩn theo Nga, chống
Trung Cộng, thì lại hết lời mạt sát từ Mao Trạch Đông tới Đặng Tiểu
Bình.
Đèn Cù đưa chúng ta vào một xã hội điên đảo, “sáng đúng, chiều sai, mai lại đúng.” Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh….
Những đoạn phim thú vị nhất rút ra từ cuộc sống của những con người
bình thường, các nhà văn, nhà báo, các cán bộ, những người qua đường.
Ở nhà Trần Đĩnh, trong khu văn công Cầu Giấy.
Từ trái sang: vợ chồng Đoàn Viết Hoạt, Trần Đĩnh, Mây, con gái TĐ và Thiếu Khanh, con út vợ chồng Hoạt. (hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Nhà báo Minh Tường từ Hà Nội, theo đoàn quân chiến thắng vào Sài
Gòn. Anh tìm được đến nhà mẹ mình, bấm chuông. Bà mẹ mở cửa ra, chấp hai
tay vái lạy: “Thôi, tôi xin anh, anh đi với các đồng chí của anh đi cho
mẹ con tôi yên.” Trần Đĩnh đứng với Tô Hoài trên lề đường nhìn toán tù
binh Mỹ bị đưa diễn trên đường phố Hà Nội cho dân chửi rủa, ném đá. Khi
người phi công cuối cùng qua trước mặt, bỗng Tô Hoài chạy ra với tay đấm
vào mặt (đấm hụt). Tô Hoài giải thích, mình phải bày tỏ lập trường; nếu
không có đứa nào nó báo cáo mình đứng ngoài coi trong lúc “nhân dân căm
thù” thì nguy. Có ai được nghe lời Trần Độ tâm sự, sau khi đã tỉnh ngộ,
viết Nhật Ký Rồng Rắn: “Này, nói thật chứ bây giờ... hễ nghe
thấy cái gì là sự thật thì trong người sướng ghê lắm ấy!” Có ai được
nghe một nữ nhân viên báo Nhân Dân đã về hưu bày tỏ nỗi oán hận: “Ông
cha đổ bao xương máu giành được độc lập nhưng nô lệ vẫn hoàn nô lệ!”
Trần Đĩnh rất gần Lê Đạt. “Một hôm Lê Đạt bảo tôi: Nhà thơ có lẽ là
người yêu nước nhất. Họ chăm lo nhất đến tiếng mẹ đẻ…. Đạt nhiều lần
giục tôi viết: Tiểu thuyết về mày, gia đình mày – Tôi im lặng. Biết viết
là cực kỳ cô đơn. Và quả tình tôi đã thật sự cô đơn – đúng ta là bí mật
– trong bao nhiêu năm với cuốn sách này.”
Sống hầu hết cuộc đời trong một xã hội mà Đảng Cộng sản và lãnh tụ
chiếm “đặc quyền viết, đặc quyền nói;” chỉ dùng các nhà văn làm đầy tớ,
“Ôi đã làm đầy tớ thì có đời thuở nào còn dám sáng tạo?” Bây giờ Trần
Đĩnh đã viết. Lúc đầu, ông chỉ định viết để “tố cáo tội gây nội chiến
Nam Bắc là sai lầm;” trong khi viết thì đổi ra hướng “phê phán toàn
diện.”
“Vâng, tôi xin đối mặt với công luận đây. Tôi ăn gian nói dối thì các ông cứ việc vạch ra.” Đó là lời Trần Đĩnh, tác giả Đèn Cù. Xin mời quý vị bước vào, cùng sống trong cảnh Voi giấy (ối a) ngựa giấy, vòng quanh (ối a) nó tít mù.
Ngô Nhân Dụng