Hoa Kỳ vẫn là cường quốc số một trên thế giới. Ông Lạc Ngọc Thành,
lãnh đạo cơ quan hoạch định chính sách Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã viết
trên tờ chuyên san của Bộ này như sau: Mỹ vẫn sẽ là cường quốc đứng đầu
thế giới trong ít nhất hai mươi năm nữa, không nên cho rằng họ đang suy
yếu đến mức không thể cải thiện được hoặc hai bên (Trung Quốc, Hoa Kỳ)
sẽ sớm gần ngang bằng. Mỹ vẫn là Mỹ. Nước này chiếm 1/4 nền kinh tế thế
giới, có sức mạnh quân sự, khoa học vượt trội và chúng ta không được
đánh giá thấp khả năng điều chỉnh và phục hồi của họ.
Từ cuối thế kỷ 19 đến nay, Hoa Kỳ đã và vẫn đang dẫn đầu thế giới
trong sáng tạo kỹ thuật và nghiên cứu khoa học. Hoa Kỳ là nôi sinh của
nhiều phát minh sáng chế. Năm 1876, Alexander Graham Bell được cấp bản
quyền chế tạo điện thoại lần đầu tiên. Phòng thí nghiệm của Thomas
Edison sáng chế được máy hát, bóng đèn điện dây tóc chịu nhiệt đầu tiên,
và máy thu hình bền đầu tiên. Năm 1903, Anh em nhà Wright được xem như
người phát minh ra máy bay đầu tiên. Ngay trong Chiến tranh Thế giới lần
thứ 2, Hoa Kỳ đã khai mở thời đại nguyên tử, chế tạo hỏa tiễn, đưa
người lên Mặt Trăng. Hoa Kỳ là nước chính yếu phát triển Arpanet, tiền
thân của Internet. Hoa Kỳ là quốc gia phát triển và trồng trọt chính yếu
thực phẩm biến đổi gen; trên phân nửa những vùng đất thế giới được dùng
trồng các vụ mùa kỹ thuật sinh học là ở tại Hoa Kỳ ….
Với 333 giải Nobel đã đạt được, số giải Nobel của Hoa Kỳ sấp sỉ tổng
các giải Nobel của tất cả các nước khác trên thế giới công lại.
Hoa Kỳ luôn dẫn đầu 5 trong số 6 lĩnh vực được trao giải Nobel: Vật lý, Hóa học, Sinh học, Kinh tế, Hòa bình.
Nói chung nhân loại mang ơn và rất cần Hoa Kỳ. Thử hình dung, nếu
không có Hoa Kỳ thì đời sống nhân loại còn lạc hậu biết chừng nào? Bao
nhiêu phương tiện, thiết bị hiện đại chưa xuất hiện? Bao nhiêu chứng
bệnh nan y chưa được chẩn trị?
…
Việt Nam muốn có nước giầu, dân mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì không thể không hợp tác với Hoa Kỳ.
…
Việt Nam muốn có nước giầu, dân mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì không thể không hợp tác với Hoa Kỳ.
Vấn đề đó đã quá hiển nhiên, bài viết này chủ yếu bàn định về yêu cầu
bức thiết của hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ để giữ gìn độc lập dân tộc
và toàn vẹn lãnh thổ.
Cuối cuộc hội đàm tại Washington ngày 25 tháng 7 năm 2013, Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang đã trao tay Tổng thống Obama một bản sao bức thư
của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman cách đây 67
năm.
Bức thư được viết và gửi từ ngày 16 tháng 2 năm 1946 nhưng phải một tháng sau đó mới đến được tay người nhận. Nội dung như sau:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh – Việt Nam dân chủ cộng hòa – Hà Nội xin gửi tới ngài Tổng thống Hoa Kỳ, Washington DC
Thay mặt chính phủ và nhân dân Việt Nam, tôi xin trân trọng thông
báo đến ngài rằng trong quá trình các cuộc hội thoại giữa Chính phủ
Việt Nam và đại diện Pháp, Pháp đòi hỏi sự ly khai của Nam Bộ và sự trở
lại của quân đội Pháp tại Hà Nội, trong khi đó dân và quân đội Pháp đang
hoạt động chuẩn bị cho một cuộc đảo chính ở Hà Nội và xâm lược quân sự.
Vì vậy, bản thân tôi đưa ra lời yêu cầu tha thiết tôn trọng nhất tới
Ngài và những người dân Mỹ để can thiệp khẩn cấp và hỗ trợ độc lập cho
chúng tôi và giúp làm cho các cuộc đàm phán phù hợp với các nguyên tắc
của Điều lệ Đại Tây Dương và San Francisco”.
Kính
Ho Chi Minh”
Bức thư trên biểu lộ rõ “yêu cầu tha thiết tôn trọng nhất” của Hồ chủ
tịch muốn dựa vào Mỹ để giành độc lập dân tộc. Câu chuyện sau đây minh
chứng thêm điều đó:
Năm 1944, khi được tin một máy bay Mỹ bị nạn trên bầu trời Cao Bằng
và viên trung úy phi công Mỹ William Shaw được Việt Minh cứu sống, cụ Hồ
đã lệnh cho tiểu đội du kích Lê Quảng Ba phải bảo vệ Shaw. Cụ đã tiếp
Shaw và cuối 1944 đã đưa Shaw cùng mình sang Côn Minh. Nhờ câu chuyện
trao trả Shaw, Hồ chủ tịch được Charles Fenn, chỉ huy Cơ quan cứu trợ
không quân (AGAS) và tướng Claire Chennault, chỉ huy Không đoàn 14 Hoa
Kỳ tiếp đón. Thông qua Charles Fenn và Claire Chennault, chập choạng tối
ngày 24 tháng 4 năm 1945 đã có cuộc tiếp xúc giữa Hồ chủ tịch với
Archimedes Patti, phái viên của Tướng tình báo William Donovan, chỉ huy
trưởng cơ quan OSS (tiền thân của CIA) tại một ngôi làng nhỏ cách Tĩnh
Tây khoảng 10km. Trong cuộc gặp, Hồ chủ tịch đã nói rất thẳng: “Việc
hợp tác với Đồng minh chống Nhật trên chiến trường Đông Dương mà chúng
tôi đã làm, trên thực tế, chứng tỏ rằng chúng tôi sẵn sàng hợp tác với
Chính phủ Mỹ”
Kết quả hội đàm là ngày 15-4-1945, nhóm tình báo Đồng minh được đưa
vào căn cứ Việt Minh. Cụ Hồ dặn các ông Cao Hồng Lĩnh và Quốc Văn rằng: “Đây
là đám Đồng minh nói là chống phát xít, ngoài việc chúng nắm tình hình
Nhật, đồng thời cũng nắm tình hình của ta. Đây là nhóm tình báo chuyên
nghiệp, ở Đông Dương đã lâu. Đã cho chúng vào rồi thì trong quan hệ hàng
ngày nên xử trí như thế nào cho được việc của họ và cũng có lợi cho ta.
Ba phương châm các chú phải nhớ để giải quyết mọi công việc: Thứ nhất
là làm gì có lợi cho hợp tác với Đồng minh, không có hại cho công việc
của ta. Thứ hai là không từ chối một việc gì có ích chung nhưng cũng
không hứa hẹn một điều gì không làm được. Thứ ba là nên khôn khéo đối
xử, tìm hiểu hoàn cảnh cụ thể từng người, linh hoạt giải quyết mọi công
việc để tranh thủ họ”.
Do cơ trời không thuận nên mối giao hảo Việt Mỹ đã không được tiếp
nối và phát triển tốt đẹp nhưng rõ ràng chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt rất
cao cái yêu cầu liên kết với Hoa Kỳ cho mục tiêu giành độc lập dân tộc.
Yêu cầu đó rất có thể đã được đáp ứng nếu ta không gắn vấn đề độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Vào thời gian ấy, năm 1941, với sự đồng thuận của Thủ tướng Anh
Winston Churchill và Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt, Hiến chương
Đại Tây Dương ra đời đã khẳng định sự tôn trọng không chỉ chủ quyền quốc
gia mà cả công cuộc giành độc lập của các quốc gia bị tước chủ quyền.
Trước đấy, cha ông ta cũng đã từng muốn dựa vào Hoa Kỳ để giành độc
lập. Năm 1873, vua Tự Đức cử Bùi Viện như một “đại sứ đặc mệnh toàn
quyền” sang Hoa Kỳ để cầu viện chống Pháp.Tổng thống Ulysses Grant đã
tiếp và tỏ ý muốn giúp đỡ. (Lúc này Pháp và Mỹ đang đụng độ trong trận
chiến ở Mexico). Nhưng vì Bùi Viện không đem theo quốc thư nên hai bên
không thể có một cam kết chính thức. Năm 1875 ông mang trình quốc thư
nhưng khi ấy Mỹ và Pháp đã hết thù địch nên Ulysses Grant tỏ ra thờ ơ
với yêu cầu giúp Đại Nam đánh Pháp.
Trước họa xâm lấn Biển Đông của giặc Tàu, cách đây 145 năm, trong bản
văn “Tiễu trừ giặc biển” đề ngày 15 tháng 10 năm 1868 Nguyễn Trường Tộ
đã viết “Người Thanh ở trên các đảo này tụ nhau làm giặc. Đây là số
giặc biển nhiều nhất trên địa cầu. …Giặc biển là mối hại chung cho cả
nước ta, nạn giặc này đã lâu lắm rồi chẳng phải một sớm một chiều nữa mà
tương lai cũng không biết đến lúc nào thì hết, nghiễm nhiên là một giặc
dai dẳng. Những thứ giặc khác cũng có lúc bại vong, chứ bọn giặc biển
này thì cha truyền con nối. Nước ta bị chúng nhiễu hại, nếu chỉ một vài
năm còn có thể dần dà mong khỏi, nếu chỉ có một vài lần còn có thể tìm
cách bắt. Nhưng đến nay chúng tới lui chẳng phải chỉ một hai năm, cướp
bóc giết hại chẳng phải chỉ một hai lần nữa. Sự tổn thất của công và của
tư mỗi năm kể có số vạn, đường thương mại không thông, hàng hóa ứ đọng,
thật là một cái hại lớn cho sinh dân.
… Giặc biển so với binh thuyền người Tây thì cũng như chuột so
với hổ mà thôi … Nếu ta biết cư xử thỏa đáng với người Tây thì sẽ cùng
nhau sống yên ổn vô sự, mà lại có thể tăng cường tiễu trừ giặc biển
khiến chúng không dám lui tới …Nay nếu ta thành thật đi lại với họ, coi
như anh em, đem việc đó nói rằng: Bọn giặc biển lấy biển làm vườn, lấy
nước làm nhà, ẩn hiện bất thường, nước tôi có lắm việc không thể phòng
tiễu được hết, nay Tây Nam đã hòa hiếu mà đường đi lại Nam Bắc không
thông như thế cũng chẳng lợi ích gì cho quý quốc, quý soái trước đã có
lời như vậy nay nếu thỉnh thoảng tuần hành trên mặt biển bắt hết thuyền
phỉ giao cho nước chúng tôi xử trị thì chẳng những thông được đường buôn
bán mà còn làm tăng thêm tình giao hảo giữa hai nước”.
Niềm tin vào Phương Tây nói chung và Hoa Kỳ nói riêng của cha ông ta rất sáng suốt. Hoàn toàn có thể soi rọi tới ngày nay.
Thực tế cho thấy, trong khi Trung Quốc không chỉ ra sức cướp đoạt hầu
hết Biển Đông cùng với Trường Sa, Hoàng sa và gặm nhắm từng mét đất,
từng khuỷu sông ở Bản Giốc, ở Mục Nam Quan …thì Hoa Kỳ chưa hề có nhu
cầu xâm lấn lãnh thổ, lãnh hải của ta.
Những nhận định sau đây của chính trị gia Nguyễn Gia Kiểng được xem là rất đúng đắn:
“Mỹ hoàn toàn không phải là một đế quốc thực dân, trái lại còn là
một cường quốc chống chủ nghĩa thực dân. Từ ngày lập quốc họ chưa hề
đánh chiếm để sáp nhập hay thống trị một nước nào. Mỹ là một cường quốc
không gian, hàng hải và thương mại cần thị trường chứ không cần thuộc
địa. Cho tới nay họ vẫn từ chối sáp nhập Porto Rico dù không ai, kể cả
người Porto Rico, chống lại; họ trả độc lập cho Philippines sau khi mua
lại quần đảo này từ Espana. Sự hiện diện của Mỹ tại Việt Nam đáng lẽ đã
phải được coi là một may mắn lớn, nó đem lại cho chúng ta sự hợp tác tận
tình của cường quốc mạnh nhất, giầu nhất, tân tiến nhất và sáng tạo
nhất thế giới mà không hề có nguy cơ mất nước”.
Trở thành đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ là hoàn toàn có thể bởi
ngày nay hai bên không có những mâu thuẫn cơ bản về quyền lợi. “Giấc mơ
Mỹ” nếu không góp phần nâng cánh “Giấc mơ Việt Nam” thì cũng sẽ không uy
hiếp nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng như “Giấc mơ Trung Hoa”.
Giá trị Mỹ nói chung là những giá trị văn minh, tiên tiến mà Việt Nam
cần vươn tới, kể cả vấn đề nhân quyền.
Định nghĩa của “giấc mơ Mỹ” trong từ điển “Kodzien” được hiểu là hệ
thống tổ chức xã hội Mỹ đảm bảo sự bình đẳng cho mọi cơ hội của tất cả
mọi người, con người có thể thành công nhờ vào tài năng và nỗ lực của
bản thân, có thể phát triển không hạn chế trong mọi lĩnh vực kinh tế, và
xã hội. Chính vì vậy mà hơn 200 năm qua nước Mỹ không những tồn tại
vững bền mà phát triển rất nhanh, rất mạnh trong khi chế độ XHCN chưa
đầy một trăm năm đã sụp đổ tan hoang ở Liên Xô, Đông Âu. Tương lai Trung
Quốc ẩn hiện đầy hiểm họa. Triều Tiên, Cuba thì sống dở chết dở.
Rất may là Hoa Kỳ đang chủ trương xoay trục về hướng Đông và ngày
27/7 vừa qua, trong chuyến thăm ba nước Đông Nam Á, Phó Tổng thống Mỹ
Joe Biden đã cam kết Mỹ sẽ tiếp tục là một cường quốc Thái Bình Dương,
đồng thời khẳng định vai trò của nước này trong việc duy trì hòa bình và
ổn định trong khu vực. Kết thúc chuyến thăm Singapore hai ngày, ông
khẳng định rằng sự hiện diện của Mỹ sẽ bảo đảm cho các nước Châu Á-Thái
Bình Dương tập trung phát triển kinh tế.
Hoa Kỳ cũng đánh giá rất cao vai trò của Việt Nam. Đại sứ Hoa Kỳ tại
Việt Nam Michael W. Michalak khi trả lời báo Dân Trí ngày 26 tháng 5 năm
2010 đã từng nói:
“Tôi cho rằng Việt Nam có thể trở thành một quốc gia quan trọng
trên chính trường thế giới. Việt Nam đang trên đà hội nhập toàn cầu, đã
tổ chức hội nghị APEC năm 2006, gia nhập WTO năm 2007, làm thành viên
Hội đồng Bảo an LHQ năm 2008-2009 … Bằng nhiều cách, Việt Nam đang mở
cửa nền kinh tế và tham gia vào nhiều hoạt động quốc tế. Với việc Việt
Nam phát triển được kinh nghiệm trên trường quốc tế và tham gia vào việc
nêu ra cũng như tiếp nhận các ý kiến, tôi cho rằng chắc chắn Việt Nam
sẽ có vai trò lãnh đạo trong tương lai”.
Cha ông đã dạy, Hoa Kỳ đã chìa tay đón, những người lãnh đạo ĐCSVN
hãy biết vượt thoát khỏi vòng luẩn quẩn lú lẫn của ý thức hệ, sám hối
trước những tai ương quá khứ, gạt bỏ tỵ hiềm mà nắm lấy cơ hội đặng cứu
nước và chấn hưng dân tộc.
Sự kiện chủ tịch Trương Tấn Sang tặng lại tổng thống Obama bức thư
của chủ tịch Hồ Chí Minh tuồng như thể hiện ý thức đó. Bởi vậy chuyến
thăm chính thức Hoa Kỳ vừa qua của ông đã mang lại nhiều kết quả tích
cực đối với quan hệ 2 nước. Ông Murray Hiebert – Phó Chủ nhiệm Chương
trình Nghiên cứu Đông Nam Á của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc
tế (CSIS), nơi Chủ tịch Trương Tấn Sang đã có bài phát biểu quan trọng
trong chuyến thăm vừa qua – cho biết: “Hoa Kỳ mong muốn Việt Nam tham
gia Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), và đang
tăng cường quan hệ với Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, trong đó có quân
sự. Trong ASEAN, Hoa Kỳ coi Việt Nam là một trong những quốc gia có tư
duy chiến lược nhất, đặc biệt là trong vấn đề Biển Đông”.
Hạ tuần tháng 9 này thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại sang Hoa Kỳ. Rất trông mong.
Hà Nội ngày 22 tháng 9 năm 2013
© Nguyễn Thanh Giang
© Đàn Chim Việt