Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu
trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần
cộng đồng trách nhiệm.
Cuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày
30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang
vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải
phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra.
Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “20 năm
rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một
sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: Phải nhanh
chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.
Nhưng, hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời
làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những
chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác
xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu
ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt
đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ
sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi
nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu
hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.
Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật
giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; Cặp nhẫn vàng chóe
trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; Con búp bê
nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe – buộc trên ba lô
của một anh bộ đội phục viên may mắn.
Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh… được các anh bộ đội giấu
dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương
gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày[1], Thép Đã Tôi Thế Đấy[2]…
Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập
kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn
còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một
miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.
Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào
kinh trong những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội”. Chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất sắp đặt lại
giang san” của những người vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam…
Chứng kiến cũng những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã
hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa tới.
Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới
Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của
Trần Ngọc Phong[3], một người bạn học chung ở trường sỹ
quan, hàng tuần mang tới cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết
đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ
sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh”. Những
năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô, vừa mỏi mòn đợi khách vừa
kín đáo đọc sách. Họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt đầu
tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy…
Mùa Hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ
báo Tuổi Trẻ như Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Huỳnh
Thanh Diệu, Nguyễn Tuấn Khanh, Huy Đức… Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ,
chia sẻ và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế
Thanh, Cam Ly, Phan Xuân Loan… Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi
chức Tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng biên tập báo
Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu
thích.
Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới
và ở đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh,
người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống
cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn
ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu
nói đó của Tuấn Khanh nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công
việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn
lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách.
Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong
chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975, cũng trở thành sản phẩm
của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhiều người không biết một cách chắc
chắn điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình.
Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980s, nhiều chính sách
làm thay đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”[4], như “Z 30”[5]
cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ
chính trị cũng không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng
độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua
những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền.
Không chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương tri
cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm.
Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975. Ngày nhiều người tin là
miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt
hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại
là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế chính trị học và các nhà xã hội
học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi, đơn
giản chỉ bắt đầu kể những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày
30-4: cải tạo; đánh tư sản; đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai
cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970s, một với Khmer Đỏ và một với người
Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm
1975, nói về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương
để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.
Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm và trong
vòng ba năm (từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012) tôi đã dành toàn bộ thời
gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân
hữu và một số nhà sử học, trong đó có 5 nhà sử học hàng đầu của Mỹ
chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012,
bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong nước, tuy
nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy
tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, như để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho
cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách này đến tay bạn đọc.
Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác
giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những
thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu
sót, chắc chắn sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công
bố. Hy vọng, bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản
sau. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con
đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.
Sài Gòn – Boston (2009-2012)
Theo Osin Facebook