Xích Tử
Xin nói ngay đó là sự biết ơn của nhân dân (huyện) đảo Lý Sơn đối với
cái công hàm, hiện nay đổi lại là công thư Bác cố Thủ tướng gởi cho Thủ
tướng Chu Ân Lai ngày 14/9/1958 để gián tiếp công nhận chủ quyền của
Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Dĩ nhiên đó là cái thủ tục hiển hiện cụ thể trong qui trình trao đổi
văn bản ngoại giao ký tên nhân danh Thủ tướng của một nước, nhưng thực
chất là sản phẩm của ý chí, trí tuệ tập thể của lãnh đạo Đảng Lao động
Việt Nam và nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, trong tình trạng bị lệ
thuộc, cả tin vào nước đàn anh Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với niềm tin
quốc tế vô sản, và cũng là tín hiệu để nước VNDCCH thể hiện mưu đồ dựa
vào CHNDTH để thực hiện công cuộc thống nhất đất nước bằng bạo lực chiến
tranh, đồng thời cũng đánh tiếng cho phía VNCH biết xu thế đó.
Nhờ vậy mà năm 1974, Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa và một
phần quan trọng của Trường Sa năm 1988. Với sự kiện trước, VNDCCH hoàn
toàn im lặng, nếu có phát ngôn nào đó cũng chỉ là nội bộ, đơn phương,
với nội dung có lợi cho Trung Quốc, chẳng hạn, nhờ Trung Quốc giữ hộ.
Với sự kiện sau, nhân dân hoàn toàn không biết gì với sự giấu diếm thông
tin có dụng ý, một phần vì chính sách thông tin xã hội chủ nghĩa nói
chung, một phần vì đó là chuyện quan hệ với Trung Quốc với những ràng
buộc lịch sử nhất định, rất bí mật.
Như vậy, cùng với những thỏa thuận ngầm nào đó trước thời điểm CHNDTH
công nhận nước VNDCCH và sau 1954, cho đến hội nghị Thành Đô, công hàm
của Bác Đồng, dù có giá trị pháp lý rất yếu, gián tiếp, theo suy diễn
của nguyên tắc estoppel với đặc thù của công cuộc thống nhất Việt Nam
trong khuôn khổ Hiệp định Genève, cũng đã trở thành công cụ để Trung
Quốc thực hiện kế hoạch bành trướng ở Biển Đông, trước hết là chiếm
Hoàng Sa và Trường Sa, là phương tiện để Trung Quốc tiến hành những hoạt
động tuyên truyền và ngoại giao nhằm chống lại những cố gắng của Việt
Nam trong khẳng định chủ quyền biển nói chung, chủ quyền đối với Hoàng
Sa, Trường Sa và việc phản đối giàn khoan HD- 982 tại lô 143.
Với đảo Lý Sơn, từ khi vấn đề Biển Đông trở nên căng thẳng với sự lấn
lướt, gây hấn ngày càng lộ liễu của Trung Quốc qua việc tuyên bố vùng
biển đường lưỡi bò, lệnh cấm đánh cá, cắt cáp tàu Viking và Bình Minh,
Hồ Cẩm Đào tắm biển Mỹ Khê – Đà Nẵng..., đã bỗng dưng trở thành địa chỉ
nổi tiếng. Đó là quê hương của Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, nơi
diễn ra lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, nơi có những mộ gió cho những âm
hồn gởi xác thân vào biển cả, rồi Vương quốc hành tỏi, rồi đảo tiền
tiêu, tuyến đầu bảo vệ chủ quyền biển đảo...Nhiều sự kiện lớn, lễ hội từ
cấp quốc gia đến cấp huyện được tổ chức; khách du lịch, khách khoa học,
khách về nguồn, khách hiếu kỳ tới tấp đổ về. Nhiều đoàn cán bộ nghiên
cứu, chỉ đạo, khảo sát, giám sát, kiểm tra, thăm hỏi, ủy lạo, từ
thiện... kìn kìn ra đảo. UBND huyện phải kêu cứu hỗ trợ tài chính và các
điều kiện tiếp khách. Một ngôi thánh thất Cao Đài giá trị vài mươi tỷ
được cất lên, thu hút đạo hữu thập phương có lúc đến hàng nghìn người.
Bù lại, Lý Sơn được ưu tiên đầu tư nhiều công trình, trước hết là các
công trình quân sự, bán quân sự hoặc do quân đội đầu tư, thi công như
đường quốc phòng, trồng cây trên núi, rồi các công trình dân dụng phục
vụ ngư nghiệp, vận tải biển, phát triển các ngành kinh tế - xã hội khác;
lớn nhất là dự án đưa cáp điện ngầm ra đảo với giá bán điện bằng trong
đất liền. Ngư nghiệp và ngư dân Lý Sơn được nhiều chính sách ưu đãi và
các nguồn hỗ trợ ngoài chính sách, có nghiệp đoàn nghề cá nằm trong tổ
chức công đoàn quốc doanh. Nhìn chung, tất cả người dân Lý Sơn thấy mở
mày mở mặt vì nổi tiếng, được nhiều người quan tâm, chú ý, chăm sóc; vì
cơ sở hạ tầng của đảo được cải thiện; vì nhiều sự kiện được tổ chức. Cụ
thể hơn, phần lớn cả ngư dân và nông dân đều có thu nhập cao hơn vì sản
xuất, vì một số dịch vụ ăn theo lễ hội, khách khứa; vì tham gia lao động
đơn giản hoặc thầu phụ các công trình lớn trên đảo. Người ở xa, mấy năm
trở lại, thấydiện mạo của đảo sáng hẳn lên so với thời bình yên chủ
quyền biển đảo trước đây.
Vì thế mà người dân đảo, có lẽ không biết hoặc biết nhưng không nói
ra, rất biết ơn cố Thủ tướng đồng hương đã thay mặt hệ thống chính trị
ký cái công hàm oái ăm 14/9/1958, rồi đến 2/9/1990, lại tháp tùng đoàn
lãnh đạo cao nhất Việt Nam lẵng lặng lên máy bay đi Thành Đô, để đến
ngày 4/9/1990, đúng cái ngày Trung Quốc ra tuyên bố chủ quyền Tây Sa và
Nam Sa năm 1958, có cái tuyên bố chung một lần nữa thoả thuận đổi chác
lệ thuộc, với tấm ảnh hai bên cười hể hả và cố Thủ tướng của mình thì
bụm dái như chờ cú phạt penalty vậy.
Xích Tử