Mai Thái Lĩnh
Ngày 3-9-2013 vừa qua, báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã đăng bài “Sự
thật về Thác Bản Giốc và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”[1],
thực ra là một bài phỏng vấn ông Tiến sĩ Trần Công Trục (nguyên Trưởng
ban Biên giới chính phủ, người trực tiếp tham gia đàm phán hoạch định
biên giới Việt Nam – Trung Quốc nói chung, khu vực Thác Bản Giốc nói
riêng) do phóng viên Hồng Thủy thực hiện. Vì bài phỏng vấn nhằm vào cá
nhân tôi và bài viết của tôi nhan đề “Sự thật về Thác Bản Giốc”[2], tôi
thấy cần phải làm rõ một số điểm được nêu trong bài phỏng vấn, nhằm
tránh sự hiểu lầm cho người đọc.
1) Bài phỏng vấn được mở đầu như sau: “Thời gian gần đây
một số hãng truyền thông phương Tây và các trang mạng xã hội đăng tải
bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh, trong đó có
những nhận định và quy chụp hết sức chủ quan khi cho rằng Việt Nam đã
bán đất cho Trung Quốc khiến dư luận có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó
nhiều người vẫn cảm thấy mơ hồ khi nhắc tới địa danh này”.
Ngay từ lời giới thiệu này, Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam đã tỏ ra không sòng phẳng và thể hiện sự “quy chụp”.
Trước hết, nói “thời gian gần đây” là không đúng sự thật. Bài viết
của tôi hoàn thành xong đã gửi đăng trên một số trang mạng vào thượng
tuần tháng 2 năm 2012 (trên trang Bauxite Vietnam là vào hai ngày 10 và
11-2-2012). Ngoài ra còn có nhiều trang mạng khác đã đăng lại, nhưng
chậm nhất cũng chỉ trong tháng 3 năm 2012, như vậy là đã một năm rưỡi.
Khi rút ngắn thời gian một năm rưỡi bằng cụm từ “thời gian gần đây”,
cả tòa soạn báo lẫn phóng viên Hồng Thủy đã cùng với ông Trần Công Trục
tìm cách gán ghép bài viết của tôi với một sự kiện nóng hổi mới xảy ra
gần đây. Đó là việc ông Sam Rainsy – lãnh đạo đảng Cứu nguy dân tộc
Campuchia, đang tố cáo phía Việt Nam lấy đất của Kampuchea. Đây là một
dụng ý không tử tế nhằm đánh lạc hướng dư luận. Bởi vì bất cứ ai đọc kỹ
các bài viết của tôi đều thấy rõ giữa quan niệm của tôi và quan niệm của
ông Sam Rainsy, không có gì giống nhau. Điểm căn bản là ở chỗ: ông Sam
Rainsy là một nhà chính trị, đứng đầu một đảng chính trị ở nước láng
giềng, muốn lấy lòng cử tri nên kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi, còn
tôi tuy luôn luôn bàn đến chính trị, nhưng lại không liên quan đến một
đảng chính trị nào, vì thế không có động cơ phe phái. Hơn thế nữa, tôi
cũng không liên quan gì đến cái mà ông Tiến sĩ Trần Công Trục gọi là
“quan niệm về chủ quyền lịch sử”, nghĩa là “ngày xưa cha ông ta ở đâu
thì đất đó là của Việt Nam”. Hãy đọc kỹ các bài viết của tôi về vấn đề
biên giới Việt-Trung. Bất cứ bài nào cũng chỉ nhằm để bảo vệ “đường biên
giới lịch sử” đã tồn tại từ khi có các công ước Pháp-Thanh vào cuối thế
kỷ 19. Mà đường biên giới lịch sử này thì chính các tiền bối của ông
Tiến sĩ Trần Công Trục trong Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trong ngành
ngoại giao cũng đã từng coi là căn cứ quan trọng nhất trong các cuộc
đàm phán với phía Trung Quốc.
Tôi xin phép trích dẫn một đoạn văn trong cuốn “bị vong lục”
(memorandum) do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979 để làm rõ
vấn đề:
“Lập trường của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã được nêu rõ trong Công hàm ngày 2 tháng 3 năm 1979 gửi Bộ Ngoại giao
Trung Quốc: những người cầm quyền Trung Quốc đã gây chiến tranh xâm lược
Việt Nam thì họ phải vĩnh viễn chấm dứt xâm lược; phải rút ngay, rút
hết, rút không điều kiện quân đội của họ về phía bên kia đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Ngày 6 tháng 3 năm 1979, phía Việt Nam đã tuyên bố:
“Nếu Trung Quốc thật sự rút toàn bộ quân của họ khỏi lãnh thổ Việt
Nam như họ đã tuyên bố, thì sau khi quân Trung Quốc rút hết về bên kia đường biên giới lịch sử đã được hai bên thoả thuận tôn trọng,
phía Việt Nam sẵn sàng đàm phán ngay với phía Trung Quốc ở cấp Thứ
trưởng Bộ Ngoại giao về việc khôi phục quan hệ bình thường giữa hai
nước. Địa điểm và thời gian sẽ do hai bên thoả thuận.”
Nếu những người cầm quyền Trung Quốc tiếp tục chính sách xâm lược
chống Việt Nam thì quân và dân Việt Nam sẽ dùng quyền tự vệ thiêng
liêng, kiên quyết chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà
bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam quyết tiếp tục làm hết sức mình gìn giữ tình hữu
nghị truyền thống với nhân dân Trung Quốc. Chính phủ nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam kiên quyết đòi nhà cầm quyền Trung Quốc:
[1] Vĩnh viễn chấm dứt xâm lược, phải rút ngay, rút không điều
kiện quân đội của họ về nước; chấm dứt mọi hành động tội ác đối với nhân
dân Việt Nam; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam; tôn trọng
đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; phải chấm
dứt ngay việc dời cột mốc biên giới và những hành động khác nhằm thay
đổi đường biên giới đó.
[2] Cùng phía Việt Nam sớm mở cuộc thương lượng nêu trong Công hàm
ngày 15 tháng 3 năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao
Trung Quốc nhằm đem lại hoà bình và ổn định ở vùng biên giới giữa hai
nước, khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước.”[3]
“Đường biên giới lịch sử” mà văn bản này nói đến chính là đường biên
giới được hoạch định bởi các công ước Pháp-Thanh ký hồi cuối thế kỷ 19.
2) Ngay trong lời giới thiệu bài phỏng vấn cũng như trong câu
hỏi của phóng viên, câu trả lời của ông Tiến sĩ Trần Công Trục, đều có
những sự xuyên tạc đầy ác ý nhằm kích động người đọc nghĩ xấu về tôi.
Xin dẫn chứng một số ví dụ sau:
“- PV: Quay lại câu chuyện tài liệu “Sự thật thác Bản Giốc” của
ông Mai Thái Lĩnh đưa ra các tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử để khẳng
định rằng toàn bộ ngọn thác này thuộc chủ quyền của Việt Nam và quy kết
các nhà đàm phán, lãnh đạo Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, bán
đất cho TQ. […]”
- “Câu chuyện về Sam Rainsy và một số nhóm chính trị đối
lập tại Campuchia viện dẫn những quan điểm sai trái về chủ quyền lịch
sử, bằng chứng lịch sử để đưa ra những tuyên bố vô lý về vấn đề chủ
quyền, gây rối loạn xã hội Campuchia, chia rẽ quan hệ Campuchia – Việt
Nam. Điều này không khác gì hiện nay trong dư luận đang sử dụng yếu tố
lịch sử để lật lại vấn đề đàm phán biên giới giữa Việt Nam với Trung
Quốc và tung tin các nhà đàm phán Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam bán đất
cho Trung Quốc.” (Trích lời ông Trần Công Trục).
Đây là điều bịa đặt nhằm mục đích kích động dư luận. Trong toàn bộ
bài viết của tôi, tuyệt nhiên không có chỗ nào nói “lãnh đạo Việt Nam
bán đất cho Trung Quốc.” Chỉ có một đoạn như sau liên quan đến chữ
“bán”: “Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp
lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ
thác Bản Giốc.” Nhưng câu này không phải là lời của tôi, mà chỉ là
câu trích dẫn lời nói của ông Lê Công Phụng – nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao.
3) Ông Trần Công Trục nói: “Công ước Pháp – Thanh 1887 và
Công ước Pháp – Thanh bổ sung 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định
cắm mốc kèm theo được công ước trên xác nhận và quy định mới được xem
xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán các khu vực có tranh chấp về chủ
quyền. Tất cả các tài liệu, chứng cứ lịch sử như bản đồ, thư tịch, sách
giáo khoa, bưu ảnh, ghi chép cá nhân nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công
ước trên đều không được chấp nhận, kể cả là ta hay TQ.”
Đúng là một số tài liệu tôi nêu ra chỉ là tài liệu dùng để tham khảo,
không phải là căn cứ pháp lý. Nhưng nêu những tài liệu đó là điều cần
thiết để chứng minh một sự thật: ít nhất là từ khi nhà Thanh và người
Pháp ký các công ước về biên giới vào cuối thế kỷ 19 cho đến khi có hiệp
định 1999, toàn bộ Thác Bản Giốc vẫn thuộc về nước ta.
Mặc dù ông Trục khoe rằng “đã đọc kỹ bài viết này của ông Mai Thái
Lĩnh”, trong thực tế ông đã không đọc kỹ bài viết đó. Vì vậy ông đã
không nhận ra “những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý”. Trong phần
kết luận, tôi đã viết như sau:
“Trước hết, về căn cứ pháp lý để chứng minh chủ quyền của nước ta đối
với Thác Bản Giốc, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít nhất
là 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56
để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc, [2] Tài liệu
về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960,
[3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và
[4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt
Nam in vào những năm 1976 và 1980.”
Và tôi đã đặt câu hỏi: “… tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử dụng
những tài liệu này trong đàm phán?”.
Nếu ông Trục không coi đây là những bằng chứng lịch sử có giá trị
pháp lý thì ông phải nói rõ lý do, chứ không nên lờ đi, vì các bằng
chứng này có liên quan đến chính quyền mà ông Trục phục vụ, và cả Đảng
Cộng sản Việt Nam – mà ông Trục là một thành viên.
4) Ông Trần Công Trục luôn mồm rao giảng về sự khác nhau giữa một bên là “chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử, quan điểm lịch sử” và bên kia là “các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo luật pháp quốc tế”.
Tự coi mình là người am hiểu và nắm vững vấn đề hơn người khác, ông
luôn mồm chê bai người khác là “nhầm lẫn”, là “nhận thức hạn chế”, v.v.
và v.v.
Vì vậy, tôi thấy cần nhấn mạnh đến “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” trích từ cuốn Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
xuất bản năm 1979, mục II (Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt
Nam từ năm 1954 đến nay), nói về việc “nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần
lượt lấn chiếm hết khu vực này đến khu vực khác của Việt Nam, từ khu vực
nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan trọng về quân sự đến khu
vực quan trọng về kinh tế”:
“[3] Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.
Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo
sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng
các công trình để từng bước xâm lấn đất.
Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng)
trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính
quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970
phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang
lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản
Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập
kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã
rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang
nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc.” (tr. 11-12)
“[7] Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới.
Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt
Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu
một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của
Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác
Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác
Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong.” (trang 14)
Đề nghị ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho biết: những hồ sơ nêu trên có
phải là “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” hay không?
Riêng tôi thì tin rằng khi viết những dòng chữ này trong bản “bị vong
lục” năm 1979, Bộ Ngoại giao do cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch[4] lãnh đạo đã có sẵn những chứng cứ pháp lý cụ thể kèm theo. Nếu ông Trần Công Trục thật sự có “tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước” thì
ông nên đề nghị ông đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mở
kho lưu trữ để công bố các hồ sơ nêu trên cho toàn dân biết. Trong các
hồ sơ đó, dĩ nhiên có cả những bản đồ chi tiết về cột mốc 53, về cồn Pò
Thoong, v.v… – nhất là chứng cứ về việc Trung Quốc đã sửa bản đồ tỷ lệ
1/100.000 như thế nào nhằm “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và
cồn Pò Thoong”.
Cũng cần nhấn mạnh đến ý kiến của ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho rằng
chỉ có “các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo” hai công ước
Pháp-Thanh và được hai công ước ấy “xác nhận và quy định” mới được xem
xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán, còn tất cả các chứng cứ khác (kể
cả bản đồ) “nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên” đều không được
chấp nhận. Theo tôi, một khi đã chấp nhận điều kiện này, ông Trục và
những người tham gia đàm phán về phía Việt Nam đã rơi vào bẫy của phía
Trung Quốc.
Vì sao? Vào cuối thế kỷ 19, khi ký kết các công ước giữa Pháp và nhà
Thanh, trình độ kỹ thuật chưa cho phép người ta vẽ bản đồ với độ chính
xác cao, nhất là chưa có tọa độ địa lý. Vì vậy nếu chỉ dựa vào những bản
vẽ ấy, không thể xác định được chính xác các cột mốc biên giới. Chính
phía Trung Quốc cũng biết rõ như thế cho nên họ mới tìm cách “sửa bản
đồ”, “dời cột mốc”, và sau khi đã ký được hiệp định 1999, hoàn thành
việc cắm mốc, họ đã vội vàng dỡ bỏ mọi cột mốc lịch sử để “phi tang”,
xóa dấu tích nhằm che giấu những việc làm ám muội của họ.
Vì thế, cần phải căn cứ vào các tài liệu – nhất là bản đồ của thời Pháp thuộc, để xác định đường biên giới Pháp-Thanh đã được thể hiện rõ ràng trên thực tế.
Cho đến nay, các nhà ngoại giao tham gia đàm phán (kể cả ông Trần Công
Trục) đều cố tình lờ đi hai tài liệu quan trọng: bản đồ gốc tỷ lệ
1/100.000 (tức là bản đồ do người Pháp in trước năm 1954) và bản đồ in
lại đã bị Trung Quốc sửa chữa. Chính sự mờ ám đó khiến cho nhân dân hoài
nghi vào “lòng yêu nước”, “tính trung thực” của những người tham gia
đàm phán hiệp định biên giới Việt-Trung, chứ không phải là do những bài
viết của tôi và các nhà nghiên cứu khác.
Điều mà các bài viết của tôi nhắm tới chính là “đường biên giới do
lịch sử để lại” mà bản “bị vong lục” năm 1979 đã nhiều lần nhắc tới.
Đường biên giới lịch sử ấy chính là đường biên giới do các công ước
Pháp-Thanh quy định vào cuối thế kỷ 19. Đường biên giới lịch sử ấy có
thật sự được tôn trọng hay không? Hiệp định biên giới trên bộ năm 1999
có bảo đảm được “đường biên giới lịch sử” ấy hay không? Đó mới thật sự
là điều những người Việt Nam yêu nước băn khoăn, lo nghĩ.
Vì vậy, không thể đánh lận con đen, quy tôi vào quan niệm “chủ quyền lịch sử” theo kiểu của Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam
và ông Tiến sĩ Trần Công Trục. Tôi đâu có đòi lại đất Quảng Tây hay
Quảng Đông mà bảo tôi “nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”?
Cuối cùng, tôi đọc được câu sau đây trên trang mạng Giáo dục Việt Nam – cơ quan ngôn luận của “Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng ngoài công lập”: “Mọi ý kiến nhận xét, phản biện về các nội dung trong bài viết trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo
vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ
hòa bình, ổn định và phát triển đất nước, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam
sẵn sàng đăng tải. Tiến sĩ Trần Công Trục sẵn sàng trao đổi để làm rõ những thắc mắc, nghi vấn xung quanh vấn đề này.”
Dựa trên tinh thần đó, tôi chính thức
đề nghị báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết này cùng với
toàn văn bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” bên cạnh bài trả lời phỏng
vấn của ông Trần Công Trục để độc giả tiện so sánh, đánh giá, phản biện.
Đà Lạt ngày 5-9-2013
M. T. L.
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả
............................
............................
[1] “Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 3-9-2013:
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Su-that-ve-Thac-Ban-Gioc-va-nhan-thuc-sai-lam-ve-chu-quyen-lich-su/315145.gd
[2] Mai Thái Lĩnh, Sự thật về Thác Bản Giốc, Bauxite Vietnam 10 và 11-2-2012:
http://boxitvn.blogspot.co.uk/2012/02/su-that-ve-thac-ban-gioc.html
http://boxitvn.blogspot.co.uk/2012/02/su-that-ve-thac-ban-gioc_11.html
[3] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979, trang 34-36. Những đoạn gạch dưới là do tôi nhấn mạnh (MTL).
[4]
Theo Wikipedia bản tiếng Việt, ông Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm
Văn Cương) là thân sinh của ông Phạm Bình Minh – Bộ trưởng Ngoại giao
hiện nay.