Ngô Nhân Dụng
Hồi đầu tháng trước, tuần báo The Economist mới viết về việc quán
McDonald's đầu tiên sắp mở tại Sài Gòn. Ai cũng biết McDonald là một
nhãn hiệu quán “ăn nhanh” lớn, chuyên bán “hamburger,” tiêu biểu cho văn
hóa ẩm thực của Hoa Kỳ.
Ðến thành phố lớn nào trên thế giới người ta cũng thấy hình ảnh chữ M
cong cong của quán này, mầu vàng trên nền mái ngói đỏ. Họ có 35,000
quán ăn McDonald khắp thế giới. Tôi chỉ thấy ở Cusco, một thành phố du
lịch tại Peru, họ không cho phép McDonald's cũng như Starbuck treo những
nhãn hiệu lòe loẹt, quán nào cũng chỉ được đề tên giản dị như các cửa
hàng ăn uống khác.
Bài báo cho biết hãng McDonald's đã quảng bá việc mở quán ăn đầu tiên
của họ ở Sài Gòn với một niềm hãnh diện, cho biết chủ nhân của cái quán
McDonald's sắp mở là một nhà kinh doanh lớn, một công dân Mỹ gốc Việt.
Thủa còn đi học, Henry Nguyên đã từng làm việc trong các quán McDonald ở
Mỹ. Henry say mê McDonald, và đã nuôi ý định sau này sẽ làm chủ một cái
quán tương tự ở quê hương cha mẹ mình. Bây giờ giấc mộng đó sắp thành
sự thật. Ðúng là một hình ảnh lý tưởng, tiêu biểu cho “giấc mơ” của các
thanh niên lớn lên ở Mỹ. Khi hãng McDonald's chọn Henry làm người mở
quán ăn đầu tiên, theo bản thông cáo gửi báo chí, họ nêu lý do là họ
nhận thấy ông ta có “một tập hợp lý tưởng của tài kinh doanh, thành tích
kinh doanh đã tạo được, có lòng nhiệt thành và khả năng.”
Báo The Economist nêu lên một chi tiết mà bài quảng cáo của hãng
McDonald's đã quên không nhắc tới. Henry Nguyên là con rể của Thủ Tướng
Nguyễn Tấn Dũng. Bài báo này giới thiệu với các độc giả, cho biết thêm:
“Bố vợ của Henry Nguyên từ năm 2006 đã làm cho lòng tin tưởng của công
chúng Việt Nam bị xoi mòn quá nhiều.” Các thành tích của ông Nguyễn Tấn
Dũng được báo này kể ra sơ sài như sau: “Ông Dũng đã chỉ huy các vụ đàn
áp những người chống lại ông, hoặc đòi tự do dân chủ, trong nhiều năm
qua; thêm vụ phá sản của một công ty làm tầu thủy không trả được món nợ
ngoại quốc 600 triệu đô la; và gần đây là tình trạng trì trệ của nền
kinh tế khiến các nhà đầu tư nước ngoài hết tin tưởng.”
Cũng trong bài báo này, The Economist liệt kê thành tích lo cho con
cái của ông Nguyễn Tấn Dũng: “Con đầu là Nguyễn Thanh Nghị đứng xây tòa
nhà Bitxco cao nhất Sài Gòn. Con rể là Henry Nguyên, không những là chủ
nhân tương lai của quán burger mà còn từng làm giám đốc của IFB
Holdings, đã làm chi nhánh của các công ty thực phẩm Pizza Hut cùng với
Coffee Bean & Tea Leaf. Con gái là Nguyễn Thanh Phượng thì làm quản
trị cao cấp của quỹ đầu tư Viet Capital.”
Người Việt Nam còn biết nhiều thành tích khác nữa! Ngoài ông Nguyễn
Tấn Dũng, bài báo cũng nhắc tới các “vương tôn công tử” khác đã được cha
anh cất nhắc lên các chức vụ lớn và chỗ ngồi béo bở. Như năm 2011, cậu
Nông Quốc Tuấn, con Tổng Bí Thư Nông Ðức Mạnh về hưu, chỉ làm bí thư
tỉnh 5 tháng đã được đưa vào Trung Ương Ðảng. Năm 2007, Phạm Thanh Bình,
chủ tịch công ty sắp phá sản Vinashin, đã đưa cậu con 27 tuổi lên làm
phó chủ tịch một viện nghiên cứu chế tạo tầu thủy, rồi sau đó cậu được
đưa ngay lên ba chức vụ quan trọng khác. Ông Bình còn đưa anh em rể
(hoặc anh, em vợ) của mình lên các chức vụ quan trọng, qua mặt hội đồng
quản trị. Tờ báo cũng không quên cô Tô Linh Hương, con gái ông Tô Huy
Rứa, tốt nghiệp về báo chí, năm 2012 lên làm chủ tịch công ty xây dựng
Vinaconex, bị tai tiếng quá nên mấy tháng sau phải từ chức.
Dân Việt Nam thường nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ.” Nhưng
trong quá khứ, việc lợi dụng quyền hành để giúp bà con thân thuộc còn bị
giới hạn bởi hai thứ: Luật pháp và Phong hóa. Về luật pháp, ngay dưới
thời vua quan phong kiến, thân nhân của các người làm quan vẫn bị cấm
không được kinh doanh trong phạm vi trách nhiệm của ông quan. Một người
được cử làm chủ khảo kỳ thi mà có con cháu dự thi là phải xin ngưng (hồi
tị). Các biện pháp đó nhằm tránh “quyền lợi công tư xung khắc”
(conflict of interests), một quan niệm rất phổ cập ở các nước dân chủ tự
do. Nhà văn Phan Khôi đã từng tố giác “dưới chế độ Hồ Chí Minh có những
nhà văn vừa làm chủ khảo vừa dự thi các giải văn chương,” mà kết quả là
chính họ được trao giải thưởng!
Nhưng ngay trong thời phong kiến, luật pháp cũng không đủ chặt chẽ và
bao quát để ngăn ngừa các vụ lạm dụng quyền lực cho vợ con, thân nhân
của các quan làm giầu. Cho nên trong xã hội còn một mạng lưới thứ hai
ngăn ngừa các “quyền lợi công tư xung khắc.” Ðó là phong hóa. Khi tất cả
mọi người trong xã hội nhìn vào các hành động lạm dụng quyền hành với
con mắt khinh bỉ, thì chính những kẻ có ý định lợi dụng cũng ngần ngại.
Hoặc họ phải từ bỏ ý định xấu, hoặc phải giảm bớt việc lạm dụng, hoặc
tìm cách che đậy các hành động của mình.
Ở nước ta hiện nay, phong hóa đó đã bị chế độ cộng sản tiêu diệt.
Người ta lạm dụng chức vụ để giúp con cháu, họ hàng làm giầu mà không
cần che đậy, vì không hề biết hổ thẹn. Anh ngồi trên lạm dụng quyền lực,
anh đứng dưới cũng làm theo. Từ trên xuống dưới không còn ai biết xấu
hổ. Con cái thấy cha mẹ lợi dụng chức vụ làm giầu, lớn lên sẽ coi đó là
luân lý bình thường! Ðứa nào không biết lợi dụng còn bị bạn bè chê là
ngu dốt! Người chung quanh chứng kiến cảnh đó bao nhiêu năm nay, từ khi
thời đại Hồ Chí Minh bắt đầu đã hơn nửa thế kỷ, cũng thấy quen dần và
coi cảnh tượng đó là chuyện tự nhiên trong đời sống.
Tâm lý “quen dần với cái xấu” phá hoại cho truyền thống của dân tộc.
Óc trục lợi mỗi ngày càng phát triển trong cả xã hội. Người nghèo khó
chỉ chăm chắm làm sao kiếm được đồng tiền nuôi gia đình. Người khá giả
cũng chỉ lo kiếm thêm tiền để không thua kém người khác. Tiểu gia hay
đại gia, ai cũng chỉ lo kiếm tiền mà thôi. Học sinh nhìn thấy thầy giáo,
cô giáo quá túng thiếu, có lúc phải lợi dụng địa vị nhỏ nhoi của họ bắt
các em phải “học thêm.” Khi lớn lên các em sẽ coi việc kiếm tiền là mục
tiêu lớn nhất của cả cuộc đời.
Nhưng dân tộc Việt Nam vốn không sống như vậy. Nguyễn Ðình Chiểu đã
nhất định không nhận tiền do các quan cai trị người Pháp mang biếu.
Người Pháp đã lễ phép giải thích rằng ở nước họ vẫn có tục lệ chính phủ
trợ cấp các nhà văn lúc về già; họ chỉ đem phong tục đó áp dụng ở thuộc
địa Nam Kỳ mà thôi. Nhưng Nguyễn Ðình Chiểu khẳng khái từ chối. Khi làm
lễ truy điệu các chiến sĩ nghĩa quân nổi lên ở Cần Giuộc, cụ Ðồ Chiểu đã
chỉ bày một cái bàn với chén nước, nén hương để quỳ lễ đọc bài văn tế.
Tinh thần “trọng nghĩa khinh tài” này là một di sản tinh thần của dân
tộc, chắc chắn chúng ta sẽ không bỏ mất. Nếu hiện nay nhiều người đã
quên nền luân lý cổ truyền đó, cũng chỉ vì dân Việt Nam đã phải sống nửa
thế kỷ dưới một chế độ phá hủy đạo lý cổ truyền để theo một chủ nghĩa
ngoại lai vớ vẩn. Cần gây nên một phong trào phục hồi văn hóa, chắc chắn
dân Việt Nam sẽ nhìn thấy chúng ta phải sống như thế nào mới thật là
một cuộc sống đẹp đẽ, văn minh. Chúng ta phải gây ngay một phong trào
như vậy.
Ngay ở một nước tiến bộ kinh tế mà vẫn giữ được truyền thống như Nhật
Bản, người ta cũng đặt vấn đề này. Năm 2006, cuốn sách bán chạy hạng
nhất ở nước Nhật là một tiểu luận mang tựa đề Phẩm Cách Quốc Gia (Kokka
no Kinkaku) của Mashahiko Fujiwara, bản tiếng Anh dịch là The Dignity of
a State (số bán chỉ thua bản dịch cuốn truyện mới về Harry Potter).
Trong vòng một năm người Nhật mua 2 triệu cuốn sách này. Có thể nói tác
giả đã “lên án” tình trạng dân Nhật chạy theo văn minh Tây phương, nhất
là văn minh Mỹ. Mashahiko Fujiwara (tên đọc ngược lại, theo lối Hán Việt
là Ðằng Nguyên Chính Ngạn) kêu gọi người Nhật hãy trở lại với truyền
thống cũ để khỏi “mất linh hồn.”
Là một giáo sư toán, nhưng Mashahiko Fujiwara chống lại quan niệm
sống dựa trên lý trí thuần túy của văn minh Tây phương, mà một hệ quả là
tinh thần duy lợi. Ông cho là truyền thống Nhật Bản không sống như vậy.
Tổ tiên họ sống bằng tình cảm, không quá thiên về lý trí. Họ trọng
nghĩa, khinh lợi.
Bây giờ, người Nhật sống ra sao? Trong một nửa thế kỷ qua, Fujiwara
thấy đồng bào của ông chú trọng đến việc làm giầu nhiều quá, ảnh hưởng
của kinh tế thị trường theo lối Mỹ. Nước Nhật đã thành công trên thị
trường thế giới, nhưng họ đã bị ám ảnh quá nhiều về vật chất. Bây giờ là
lúc họ đặt lại những câu hỏi căn bản, tự hỏi dân tộc họ phải sống như
thế nào mới đúng.
Nhưng dân Nhật Bản còn may mắn, vì nền giáo dục của họ còn coi trọng
luân lý, theo truyền thống Khổng Mạnh. Chế độ cộng sản đã phá hủy nền
tảng tinh thần của dân tộc Việt Nam. Bây giờ, kinh tế tư bản thời hoang
dã còn tiếp tay phá hoại trên nền luân lý nhiều hơn nữa. Vì kinh tế tư
bản đặt trên căn bản duy lợi, với giả thiết rằng khi tất cả mọi người
cùng lo kiếm lợi, kinh tế sẽ phát triển. Nhưng chế độ tư bản ở các nước
Tây phương ra đời cùng thời gian khi các định chế dân chủ tự do bắt đầu
xuất hiện. Chính nhờ được sống dân chủ nên người ta biết dùng luật pháp
đặt ra những giới hạn trên tinh thần duy lợi. Cũng nhờ nếp sống dân chủ
cho nên những tiếng nói bảo vệ đạo lý được tự do phát biểu. Người dân
được phê phán những hành đồng gian tham của những người cầm quyền và
giầu tiền. Hiện nay nước ta đang thiếu cả hai điều kiện đó. Vì những kẻ
cầm quyền đang dùng quyền hành để kiếm tiền, trục lợi. Họ vừa bất chấp
pháp luật, vừa khinh thường dư luận. Họ bịt miệng dân không cho phê
phán, đã kiểm soát hết các báo, các đài, lại còn đàn áp các mạng thông
tin Internet, bỏ tù các blogger.
Muốn phục hồi phẩm cách của dân tộc thì phải chấm dứt chế độ độc tài đảng trị này.
Ngô Nhân Dụng
(báo Người Việt)