Nguyễn Đại
Có quan điểm cho rằng dân chủ sẽ gây ra bất ổn định. Nghiêm như thế
mà chạy xe còn cẩu thả, đánh cả công an. Bài viết này thể hiện quan
điểm chính “não trạng nô lệ” mới gây ra bất ổn xã hội.
I. Yếu tố lịch sử.
Đất nước chúng ta không may phải trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc,
dù muốn hay không, não trạng nô lệ đã ăn sâu vào trong máu thịt. Đến khi
giành được quyền tự chủ (Ngô Quyền) thì “quốc gia độc lập nhưng vẫn
không có tự do”, nguyên nhân là học thuyết Nho giáo. Học thuyết Nho
giáo, về lý thuyết, rất tốt nếu có một vị minh quân lãnh đạo. Trong lịch
sử, đó có thể là Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông hay Lê Thánh Tông.. Tuy
nhiên, độc quyền ắt sinh tiêu cực. Một vị vua anh minh chưa chắc con
cháu đã anh minh. Triều đại nào cũng vậy, thường bắt đầu bằng một hai
triều đại vua tốt, sau đó là thoái hóa – nguyên nhân của độc quyền lãnh
đạo. Vì vậy, sẽ thật lố bịch nếu ai đó nói “cần phải duy trì Nho giáo để
ổn định xã hội, một ông vua xấu không phải là chủ trương của Nho giáo”.
Não trạng nô lệ kiểu Nho giáo này kéo dài cho tới khi Pháp xâm chiếm
nước ta.
Chưa kịp thoát khỏi tình trạng “đất nước độc lập nhưng nhân dân nô
lệ”, Việt Nam lại rơi vào cảnh đất nước nộ lệ lần nữa. Cảnh các nô lệ
làm việc ở đồn điền cao su với ông cai (tây hoặc ta) có roi mây trên tay
là cảnh quen thuộc nhất. Cái roi sẵn sàng quất xuống bất kỳ lúc nào nếu
ai chậm chạp hoặc có ý định nghỉ ngơi. Người phu có cảm giác vừa căm thù, vừa sợ hãi những tên cai này.
Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. Ngày 30/4/1975
Việt Nam thống nhất và đi theo con đường XHCN do Đảng Cộng Sản lãnh đạo.
Ngặt một nỗi, đã gần 40 năm trôi qua, não trạng nô lệ trong phần lớn
nhân dân vẫn không hề thuyên giảm. Đây là một số ví dụ:
1. Chúng ta hay nghe nói “sẽ không có vùng cấm trong vụ này”, hoặc là
“chủ trương của Nhà nước là kiên quyết xử lý, không bao che...”. Tiếp
sau đó là người dân ca ngợi “hoan hô, hy vọng, mang ơn…” Não trạng nô lệ
làm cho người dân cảm thấy “Nhà nước không bao che” đã là một sự ban
ơn! Sao không đặt câu hỏi “thế trong vụ khác thì có vùng cấm”? Hay
“trường hợp khác thì chủ trương của Nhà nước là không kiên quyết lắm và
có bao che?”
2. Việc TS. Nguyễn Thị Từ Huy nhận học bổng du học là do chị ấy có
khả năng nổi trội so với các ứng cử viên khác. Nhà nước có trách nhiệm
thay mặt nhân dân trao suất học bổng đúng người, đúng việc. Nhà nước
thậm chí không được quyền trao học bổng cho người bất tài, kém đức. Cho
nên chị Từ Huy không cần biết ơn Nhà nước. Nếu có ơn nghĩa ở đây thì chị
Từ Huy phải biết ơn nhân dân. Những kẻ quy kết chị Từ Huy viết bài phản
biện là “ăn cháo đá bát”, xét cho cùng, cũng là do não trạng nô lệ còn
sót lại (rất đáng thương!).
3. Gần đây nhất là diễn biến bác Lê Hiếu Đằng. Vì não trạng nô lệ,
người ta ý kiến rằng “ông Đằng đã ăn lộc nhà nước phải trả hết nhà cửa,
chế độ hưu trí rồi mới nói được phản biện”. Không khác gì nô lệ kiểu Nho
giáo “ăn lộc vua thì phải thờ vua”.
II. Hậu quả và cách giải quyết
Xét theo một logic thô sơ, máy móc thì “não trạng nô lệ dẫn đến dễ
cai trị, dễ cai trị dẫn đến các chính sách được thực thi – kết quả là
đảm bảo ổn định xã hội”. Nhưng thực tế, kết quả hiện nay là mọi trật tự,
kỷ cương bị phá vỡ.
1. Đi đường, chỉ rình xem không có công an là vượt đèn đỏ. Ngược lại,
có công an thì đến khi đèn xanh cũng không dám đi - cho đến khi được
ngoắc tay ra hiệu “đi đi”. Một não trạng “sợ công an” điển hình. Mà sợ
cũng đúng, CA sẵn sàng nện đến chết một công dân vì một chuyện rất nhỏ
(có rất nhiều ví dụ). Mặt khác, sợ nhưng rất ghét công
an – sẵn sàng tông CA, chửi bới CA, thấy CAGT là lẩm bẩm chửi – trong
khi không có họ thì giao thông còn kinh khủng cỡ nào. Ta thấy nghịch lý ở
đây: não trạng nô lệ làm giao thông không ổn định – mà lại rối bời.
2. Phía công quyền, ngược lại, rất tùy hứng trong việc ra những văn
bản pháp quy. Ví dụ gần đây nhất là “phải xin phép khi quay CSGT làm
việc”. Nguyên nhân sâu xa là, dù không cố ý, thì người nghĩ ra những văn
bản kiểu đó đã quen với não trạng nô lệ của người dân.
Trong phạm vi một bài viết, tôi không thể kể hết hậu quả não trạng nô
lệ với ổn định xã hội. Nhưng thử ngẫm xem, hầu như bất kỳ cái trái
khoáy, kỳ dị của xã hội - từ kẹt xe đến tai nạn giao thông, từ chạy
trường đến sổ vàng, từ ca ngợi lãnh tụ đến chửi bới trí thức - đều liên
quan đến não trạng nô lệ.
Đã thấy được mối liên hệ đó, thì cách giải quyết vấn đề - rốt cuộc
lại – vẫn là dân chủ. Một người dân - nếu hiểu hệ thống đèn giao thông
là để bảo vệ cho mình, mình tuân thủ nó có nghĩa mình là chủ nhân của
đất nước – sẽ tự nhiên dừng lại khi đèn đỏ mà không chờ phải huýt còi,
vung gậy lên. Ngược lại, một cơ quan công quyền – nếu hiểu được người
dân là chủ - thì tự nhiên sẽ không ban hành cái quy định “phải xin phép
khi quay CSGT làm việc”.
Trước đây, chúng ta sống ở xã hội dân chủ gấp triệu lần tư bản (gần
đây, phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan giảm xuống còn vạn lần). Đi đâu, ở
đâu cũng thấy hô hào dân chủ. Nhưng không biết vì sao dân mình vẫn giữ
mãi cái não trạng nô lệ (***). Hay là nhân dân đang chờ khi nào Việt Nam
dân chủ gấp… tỷ lần tư bản mới phát huy quyền làm chủ?
Nguyễn Đại (tháng 9/2013)
*** Có ai giải thích dùm tôi cái ngịch lý này không?