Tuấn Trần
Người Việt chúng ta khi đi ra nước ngoài, hay bị "Tây" mặc nhiên
gán cho một "Surname" là "Nguyễn". Cũng dễ hiểu thôi, vì họ Nguyễn hiện
nay chiếm khoảng 40% dân số nước ta. Có nghĩa là khi ra đường, bình
quân cứ từ hai đến ba người chúng ta gặp thì trong đó sẽ có một người là
họ Nguyễn. Đặc biệt theo kết quả thống kê của The World Geography thì
họ Nguyễn xếp thứ 4 trong danh sách các họ phổ biến nhất thế giới (chỉ
xếp sau 3 họ lớn của anh bạn láng giềng).
Có rất nhiều nguyên nhân và kể cả các giả định lý giải tại sao họ
Nguyễn ngày nay lại hùng hậu đến như vậy, trong đó nguyên nhân chính là
Triều đại phong kiến của Việt Nam gần đây nhất mang họ Nguyễn. Xung
quanh Triều đại này có nhiều đánh giá khác nhau về công lao và tội lỗi
đối với đất nước ta. Có lẽ, để có cái nhìn khách quan hơn, chúng ta hãy
điểm qua các sự kiện quan trọng liên quan đến triều đại nhà Nguyễn.
Khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi vào năm 1527, Nguyễn Kim, với
tước Hầu và là tướng của nhà Lê đã từ đất Gia Miêu Ngoại Trang, Tống Sơn
(nay là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa) hiệu triệu hào kiệt, lên biên
giới và sang cả đất Lào để chuẩn bị phò Lê diệt Mạc. Tuy bị đầu độc và
mất vào năm 1545 để rồi cơ nghiệp rơi vào tay họ Trịnh, nhưng Nguyễn Kim
chính là người đặt nền móng cho sự phát triển của Nguyễn Tộc. Sau khi
chết, ông được Vua Lê phong làm Chiêu Huân Tĩnh Vương.
Nguyễn Hoàng (con trai thứ hai của Nguyễn Kim) đưa ra một quyết định
sáng suốt để có thể "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Năm 1558,
ông xin vào trấn ải xứ Thuận Hóa có thể được xem là một sự kiện làm thay
đổi lịch sử Việt Nam ta. Sau này Nguyễn Hoàng tuy có về Bắc và phục vụ
Trịnh Tùng một thời gian, nhưng do không thỏa chí nên đã mượn bài dẹp
phản loạn để đem gia quyến cùng hơn 1000 binh sỹ dong buồm đi thẳng vào
Thuận Hóa (năm 1600) và từ đó không bao giờ về Bắc nữa. Sau sự kiện này,
họ Nguyễn và họ Trịnh đã phân chia đất nước thành hai miền trong khoảng
200 năm. Trong giai đoạn đầu từ 1627 đến 1672, hai bên đã tổng cộng
giao tranh 7 lần chính thức cùng một số xung đột nhỏ khác.
Trong suốt thời gian được xem là Nam - Bắc phân tranh ấy, để củng cố
và tăng cường sức mạnh Quân sự của mình, họ Nguyễn ở Đàng Trong đã tiến
hành hàng loạt các chính sách được cho là tiến bộ như mở cửa giao lưu
và buôn bán với Tây phương và người nước ngoài (nhật Bản v.v.). Đặc biệt
là chính sách sử dụng người Hoa một cách hiệu quả như cho người Hoa và
người Nhật đến lập phố và sinh sống. Với lợi thế xuất khẩu các sản vật
quý như Kỳ Nam, hồ tiêu, các Chúa Nguyễn không những có tiền để mua vũ
khí, mua đồng thau để đúc súng thần công mà còn giúp Đàng Trong trở
thành điểm đến của các Quốc gia có nền thương mại và Hàng hải mạnh vào
thời đó. Việc cho phép thành lập các đô thị buôn bán như Hội An hay
Thanh Hà, cộng với ưu tiên cho việc phát triển các cảng (nước mặn) làm
nơi buôn bán và xuất khẩu các sản phẩm bản địa đã góp phần làm cho các
Chúa Nguyễn ở Đàng Trong dần dần thịnh vượng.
Với tinh thần cởi mở và cầu thị, các Chúa Nguyễn đã học hỏi được
nhiều những tiến bộ của nước khác để xây dựng và mở mang bờ cõi rộng
thêm về phía nam. Trong công cuộc nam tiến này, có rất nhiều người là tù
nhân hoặc dân thường bị bắt từ các huyện phía nam Nghệ An và các tỉnh
Hà Tĩnh, Quảng Bình (ngày nay), đã bị quân họ Nguyễn bắt đưa về phương
nam và sử dụng họ như những người tiên phong trong việc thành lập ra các
đơn vị hành chính mới. Hầu hết những người này đều chủ động đổi thành
họ Nguyễn để được đối xử tốt hơn so với khi còn mang họ cũ. Trong số
những người này có tổ tiên của Nguyễn Huệ, bị đưa vào nam từ năm 1655
vốn khi đấy vẫn mang họ Hồ (dòng dõi Hồ Quý Ly!).
Trong công cuộc chinh phục Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) , các Chúa
Nguyễn đã rất thành công trong việc sử dụng Mạc Cửu - một cựu thần Nhà
Minh chạy loạn sang Việt Nam khi nhà Thanh chiếm gọn Trung Quốc. Vốn dĩ
vùng Hà Tiên là nơi rất nhạy cảm giữa người Khmer và người Việt, nhưng
Mạc Cửu với tài năng của mình đã xây dựng nơi đây thành một nơi sầm uất
và được Chúa Nguyễn Phúc Chu phong làm Tổng trấn Hà Tiên vào năm 1708.
Đây chính là phép dùng người hiệu quả để giúp bảo vệ phiên dậu phía tây
nam của đất nước - giống như cho được "Tự trị" thời bây giờ vậy.
Có thể nói trong 9 đời Chúa Nguyễn (không tính Nguyễn Phúc Ánh), Đàng
Trong của nước Việt đã được mở rộng ra rất nhiều về phía nam. Trong
quãng thời gian đó các Chúa Nguyễn đã phải huy động nhiều lực lượng,
công sức và tiền bạc để đầu tư cho công cuộc khai phá Đồng bằng sông cửu
long bây giờ. Việc đầu tư lâu dài và tốn kém đã ảnh hưởng tiêu cực đến
ngân sách Quốc gia, dẫn đến sưu cao,thuế nặng đánh vào dân, những người
đang sinh sống ở hậu phương (như Quảng Nam, Quãng Ngãi, Phú Yên,v,v.).
Hậu quả của chính sách này là sự oán thán của nhiều dân nghèo và cụ thể
hóa bằng khởi nghĩa Tây Sơn - cuộc khởi nghĩa đã làm chấm dứt sự ngự trị
của Nhà Lê và Chúa Trịnh ở phương Bắc và Chúa Nguyễn ở phương nam. Cũng
chính sự đầu tư và các chính sách khai khẩn vùng ĐBSCL mà phần lớn dân
nơi đây đã thấy mình chịu ơn họ (chúa) Nguyễn; vì vậy trong mấy năm bị
quân Tây Sơn truy đuổi, Nguyễn Ánh đã được người dân nơi đây che chở và
trung thành phò tá. Nhiều người còn kể rằng trong lúc chạy loạn, đôi khi
Nguyễn Ánh đã phải bỏ lại một số cung tần, mỹ nữ tại các tỉnh Vĩnh Long
hay Đồng Tháp nên bây giờ ở các vùng mà Ngài đã đi qua này con gái đẹp
nổi trội hơn các vùng khác.
Năm 1802 là năm Nguyễn Ánh, sau hơn 20 năm lưu lạc đã chiếm lại thành
Phú Xuân từ quân Tây Sơn để lên ngôi Hoàng Đế và nhanh chóng trong năm
đó, tiến quân ra Bắc, bắt vua Quang Toản nhà Tây Sơn và thống nhất đất
nước. Để ghi nhớ và nhắc nhở sự nghiệp thống nhất đất nước hay thu giang
sơn về một mối của mình, Nguyễn Ánh đã lấy niên hiệu là Gia (trong từ
Gia Định) và Long (trong từ Thăng Long). Thời điểm này cũng là mốc đánh
dấu một nước Viêt thống nhất có lãnh thổ lớn nhất kể từ khi chúng ta
giành được độc lập từ tay người Hán.
Vua Gia Long là một người kỳ lạ, khi chạy loạn khắp nơi từ Thổ Chu
đến Côn Đảo rồi ra Phú Quốc, ngoài sự trung thành bảo vệ của cận thần và
dân chúng ra, Ngài còn thực sự là một người gặp may mắn rất nhiều lần.
Có lần chạy ra Côn Đảo, Ngài bị quân Tây Sơn vây hãm không còn đường
thoát, nhưng bỗng nhiên đến đêm bão tố nổi lên làm chiến thuyền của Tây
Sơn tan tác nên Ngài thoát nạn. Lại có lần Ngài chạy và bị lạc ở đất Hà
Tiên, đến một con sông mà không thấy có thuyền, quân Tây Sơn đang đuổi
đến thì bỗng nhiên có một con Trâu ở đâu xuất hiện và Ngài đã cưỡi trâu
bơi qua sông an toàn. Khi còn lưu vong, vua Gia Long đã từng mượn các
thế lực ngoại bang (như quân Xiêm) hay hỗ trợ kỹ thuật của Pháp hay Bồ
Đào Nha để đánh lại Tây Sơn. Thậm chí ngài còn đưa cả con trai cả là
Hoàng Tử Cảnh lúc đó đang còn nhỏ sang Pháp để làm con tin trong việc ký
thỏa thuận với Pháp để giúp đánh lại nhà Tây Sơn (nhưng sau đó Pháp
không thực hiện thỏa thuận này). Ngài còn bôn ba mấy năm trời ở nước
Thái và giúp Vua Thái dùng hỏa công đánh bại quân Miến Điện.
Khi thống nhất giang sơn và lên ngôi Hoàng Đế, Vua Gia Long bỗng như
trở thành một con người khác - một ông vua mang đậm chất Nho giáo. Tất
cả các cải cách của nhà Tây Sơn đều bị bãi bỏ và hệ thống hành chính,
giáo dục đều bắt chước mô hình nhà Thanh bên Trung Quốc. Chúng ta có tên
nước Việt Nam bây giờ cũng là do vua Gia Long sai sứ sang Nhà Thanh xin
phong là nước Nam Việt và được vua Gia Khánh nhà Thanh phong là Việt
Nam (để khỏi gợi nhớ đến nước Nam Việt của Triệu Đà) vào năm 1804. Tuy
vẫn đối xử tốt và ban bổng lộc cho những người Pháp có công giúp mình
thủa hàn vi, nhưng Ngài không trao cho họ bất cứ quyền lực gì để có thể
gây ảnh hưởng. Ngài lấy cớ người Pháp thất tín để không thực hiện thỏa
thuận đã ký ngày trước về mở cửa thương mại, đồng thời không giao lưu
với các nước Phương Tây khác. Dưới thời Gia Long, nước ta hầu như không
phát triển thương mại mà chủ yếu phát triển nông nghiệp và tiểu thủ
công.
Nhiều người cho rằng chính các chính sách của vua Gia Long đã làm cho
Việt Nam chúng ta bỏ mất rất nhiều cơ hội để học hỏi và tận dụng các
tiến bộ của Phương Tây để phát triển. Tuy nhiên xét về mặt khách quan
thì nhìn ra xung quanh các nước khác vẫn còn rất lạc hậu vào thời điểm
đó (trừ Trung Quốc). Thời vua Gia Long và Minh Mạng quân sự Việt Nam
được xem là mạnh nhất trong khu vực và thậm chí khi lên ngôi, vua Minh
Mạng đã không ghe lời vua cha đem binh đánh Cao Miên và đổi thành một
tỉnh của Việt Nam (Tây Quận). Ngài còn cho quân đi đánh Bồn Man (Lào bây
giờ) và trước khi người Pháp chiếm Đông Dương thì tỉnh Hủa Phăn vẫn là
đất của nhà Nguyễn. Vua Thiệu Trị lên ngôi vẫn còn giữ được sức mạnh của
đất nước mà cụ thể là hòa ước mà nước Xiêm phải ký sau khi quân Việt
Nam nhiều lần tiến qua cả Ubon để đánh nước Xiêm trong cuộc chiến tranh
kéo dài 5 năm liền. Tuy thời vua Thiệu Trị, nhà vua có trả lại độc lập
cho Cao Miên, nhưng các nước láng giềng vẫn tuần tự tiến cống. Chỉ đến
thời vua Tư Đức thì nước ta mới thực sự yếu đi và kết hợp với các yếu tố
khác như "không khôn khéo trong ngoại giao" và “vị trí địa chính trị
quan trọng" nên chúng ta mới bị Thực dân Pháp chiếm và đô hộ trong
khoảng 80 năm. Mặc dù vậy trong thời gian này vẫn xuất hiện các ông vua
như Hàm Nghi, Duy Tân kêu gọi cần vương để cứu nước.
Như vậy, qua dòng lịch sử có thế đúc kết mấy điểm chính sau đây về sự nghiệp của nhà Nguyễn đối với nước ta:
Thứ nhất, Họ Nguyễn (cho dù là gốc hay do các họ
khác đổi sang) là họ có công lao lớn nhất trong việc mở mang bờ cõi cho
nước Việt chúng ta. Quá trình nam tiến của người Việt có thể không đạt
được như ngày hôm nay nếu Nguyễn Hoàng không chạy vào nam và các đời
chúa Nguyễn sau đó không dốc sức khai phá. Quá trình khai phá ĐBSCL
không những làm cho nước ta rộng hơn ra mà còn làm cho số lượng người
mang họ nguyễn tăng lên.
Thứ hai, Họ Nguyễn, với công lao của rất nhiều thế
hệ và cũng chỉ vì do đầu tư quá nhiều cho việc mở mang bờ cõi nên bị mất
về tay nhà Tây Sơn, vậy chúng ta cần nhìn lại tính chính danh của vấn
đề này và qua đó có cái nhìn đa chiều hơn về sự nghiệp của các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong. Điều này có thể thấy rõ khi chúng ta nghiên cứu
những năm tháng Nguyễn Ánh chạy loạn và sau này khởi binh ở ĐBSCL để
đánh lại Tây Sơn.
Thứ ba, tuy Nguyễn Ánh có đôi lúc mượn thế lực ngoại
bang để đánh lại quân Tây Sơn, nhưng đó cũng chỉ là trường hợp bất khả
kháng khi trong tay không có gì ngoài mấy người hầu cận mà trên mình
mạng nặng sứ mệnh của 9 đời Chúa Nguyễn để lại - giành lại cơ đồ mấy
trăm năm của họ nguyễn mới bị mất vào tay nhà Tây Sơn. Các chính sách
của vua Gia Long sau khi đánh bại Tây Sơn cho thấy Ngài hoàn toàn không
có ý đính "bán nước" một tý nào cả. Chẳng qua cũng chỉ là đôi bên cùng
có lợi mà thôi.
Cuối cùng, cũng giống như vấn đề "ái quốc hay phản quốc"
sự nghiệp của nhà Nguyễn ở nước ta cần phải được nhìn nhận bằng nhiều
lăng kính khác nhau để từ đó đưa ra các phân tích khách quan hơn và công
bằng hơn. Công hay tội của một triều đại cần được nhìn nhận và đánh giá
bằng bờ cõi được mở rộng hay thu hẹp, nhân dân được phồn vinh hay đói
khổ, tự do được tôn trọng hay bóp nghẹt, phẩm giá được gìn giữ hay chà
đạp. Những tư tưởng cai trị được sử dụng hay liên kết ngoại bang được
xây dựng, cũng chỉ là công cụ chứ không phải công/tội của một triều đại
trong con mắt của nhân dân. Và dù thế nào đi nữa, tuy không phải người
họ Nguyễn, tôi vẫn thấy tự hào mỗi khi nghĩ đến giai đoạn hoàng kim của
nước Đại Nam vào thời Minh Mạng.