Nguyễn Minh Tuấn
Dân chủ trong thế kỷ XXI phải là dân chủ thực chất. Dân chủ chẳng những chấp nhận sự khác biệt, mà còn lấy sự khác biệt, tính đa dạng trong nhân cách để làm nền tảng cho sự phát triển.
Cội nguồn của khái niệm dân chủ bắt nguồn từ thời cổ đại ở Aten (Hy Lạp). Dân chủ theo gốc tiếng Hy Lạp là "demokratia",
nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân.[1] Abraham Lincoln cũng tuyên bố
dân chủ là một chính quyền của dân, do dân và vì dân (a government of
the people, by the people, for the people), đối lập với chế độ độc
tài.[2]
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập như hiện nay, cũng giống như
nhiều vấn đề chính trị - pháp lý khác, vấn đề dân chủ cũng có nhiều thay
đổi trong cách quan niệm. Nhiều nhà khoa học cho rằng trong thế kỷ XXI,
chúng ta đã và sẽ chứng kiến những thay đổi quan trọng liên quan đến
vấn đề dân chủ như sau:
Thừa nhận và tôn trọng sự đa dạng và lợi ích của thiểu số nhằm đạt được lợi ích đa phương
Theo dự đoán của nhiều nhà khoa học nước ngoài thì trong suốt thế kỷ
thứ XXI nhân loại sẽ nếm trải những biến đổi mạnh mẽ của làn sóng thứ ba
(cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự xuất hiện nền kinh tế tri
thức) và làn sóng ấy sẽ làm biến đổi căn bản các thể chế chính trị quốc
gia và quốc tế.
Khi nói về dân chủ thế kỷ XXI, tác giả Robert A. Dahl trong cuốn sách nổi tiếng "A preface to democratic theory"
đã khẳng định một nguyên lý: Nền dân chủ thực chất nhất chính là nền
dân chủ xuất phát từ sự bình đẳng, sự bình đẳng mà pháp luật ở quốc gia
nào cũng hướng tới. Đó là sự tôn trọng tính đa dạng của các nhóm lợi
ích, nhiệm vụ của dân chủ không phải là đè bẹp ý chí của những thiểu số
đó mà là tìm ra trong số những nhóm lợi ích đó tiếng nói chung.[3]
Alvin Toffler - một nhà tương lai học nổi tiếng cũng cho rằng: Làn
sóng chính trị sẽ không dừng lại ở cấp quốc gia. Trong những thập kỷ sắp
đến, toàn bộ "bộ máy luật pháp toàn cầu" từ Liên hợp quốc đến Hội đồng
thành phố, sẽ đối mặt với sự đòi hỏi không chống lại được về việc phải
cấu trúc lại; mà nguyên tắc đầu tiên của chính phủ làn sóng thứ ba là
quyền lực thiểu số. Không phải đa số mà là thiểu số được quan tâm
đến.[4]
Alvin Toffler lập luận rằng, các nhà cai trị làn sóng thứ hai (làn
sóng văn minh công nghiệp) luôn luôn tự cho là phát ngôn nhân danh đa
số, vì tính hợp pháp của họ phụ thuộc vào nó, ông cũng thừa nhận rằng
trong suốt kỷ nguyên nền văn minh làn sóng thứ hai, cuộc chiến đấu cho
nguyên tắc đa số đã có ý nghĩa nhân đạo và giải phóng.
Ngày nay, khi xuất hiện làn sóng thứ ba, người nghèo không còn chiếm
đa số và họ trở thành thiểu số, do đó nguyên tắc đa số không còn là một
nguyên tắc hợp lý nữa, nó cũng không còn nhân đạo hoặc dân chủ nữa; vấn
đề cần hoàn thiện là phải hiện đại hóa toàn bộ hệ thống để tăng cường
vai trò của các nhóm thiểu số khác nhau nhằm cho phép họ tạo thành đa
số[5].
Alvin Toffler lập luận như vậy là có căn cứ vì: thế kỷ XX trở về
trước dường như nguyên tắc đa số luôn ngự trị và nó luôn có nghĩa là sự
thay đổi tốt hơn cho người nghèo, nhưng suy nghĩ kĩ lại sẽ thấy dân chủ
đa số thực chất là dân chủ ở cấp độ thấp, là mức độ phát triển thuần túy
và sơ khai về dân chủ. Nguyên tắc 50% + 1 rõ ràng là một công cụ đơn
thuần về lượng, cái gì để đảm bảo cho chất lượng quan điểm của một
người?
Dân chủ trong thế kỷ XXI phải là dân chủ thực chất. Dân chủ chẳng
những chấp nhận sự khác biệt, mà còn lấy sự khác biệt, tính đa dạng
trong nhân cách để làm nền tảng cho sự phát triển. Mọi sự khác biệt đều
có quyền tồn tại. Thế nên những khác biệt là bình đẳng với nhau và dân
chủ như môi trường nuôi dưỡng và bảo tồn các bộ phận thiểu số trong xã
hội, là sự khoan dung và chấp nhận lẫn nhau giữa thiểu số và đa số. Các
đặc trưng sắc tộc, các luật tục địa phương, các cộng đồng thiểu số, các
nền văn hóa độc đáo không lặp lại, các thổ ngữ, văn tự…đều là những giá
trị cần được dân chủ tôn trọng và bảo tồn bằng những đặc lệ.
Hơn nữa, bản chất của dân chủ là chấp nhận sự đa dạng hợp lý, dân chủ
không xua đuổi, không áp đặt các ý kiến, dân chủ thu nhận tất cả những
khác biệt ấy. Để làm gì? Để dung hợp hoặc tìm ra tiếng nói chung, hoặc
đi tới giải pháp tối ưu nhất nhằm đem lại lợi ích đa phương. Tính linh
hoạt của dân chủ trong việc tìm lợi ích đa phương đó sẽ là giải pháp tối
ưu, và là thách thức lớn đối với việc thực hành dân chủ.
Khả năng tự hoàn thiện và tiến bộ không ngừng của nền dân chủ chính
là nhờ sự chấp nhận tính đa dạng của các ý kiến, nó sử dụng tính đa dạng
ấy như cơ chế phản biện. Chính vì vậy, năng lực tự phê phán, tự so sánh
đối chiếu và luôn thay mới sẽ tự làm mới vấn đề dân chủ, và có lẽ đó
cũng là xu hướng của dân chủ trong thế kỷ XXI.
Phân công, phân cấp hợp lý
Yếu tố có tác động không nhỏ đến tính chất và mức độ dân chủ trong
tương lai là sự phân cấp, phân công hợp lý. Phân cấp hay phân công là
việc giao quyền quyết định vào đúng chỗ của nó. Một số vấn đề không thể
giải quyết ở cấp địa phương, và ngược lại cũng có những vấn đề không thể
giải quyết ở cấp quốc gia và có cả những vấn đề đòi hỏi sự hành động ở
nhiều cấp đồng thời cùng một lúc.
Nếu mức độ phân cấp quá mức sẽ dẫn đến hiện tượng tản quyền, cát cứ.
Alain Touraine, một nhà xã hội học người Pháp trong cuốn "Phê phán tính
hiện đại", đã nhận xét: "Nếu đất nước bị chia nhỏ thành những tộc người
xa lạ và đối địch với nhau, hay đơn giản hơn, nếu những bất công lớn đến
mức người dân không có ý thức về một lợi ích chung, thì dân chủ sẽ
không có nền tảng”[6]. Nhưng nếu quá ít quyền quyết định dành cho cấp
dưới là một sự nguy hại; nhu cầu cần thiết là phải có sự phân cấp lại
cho hợp lý quyền quyết định nếu một hệ thống quá nặng nề về tập quyền.
Dân chủ bán trực tiếp
Nhược điểm cố hữu của dân chủ trực tiếp là ở phản ứng tình cảm, nhất
thời và phụ thuộc nhiều vào vấn đề thông tin. Thiếu thông tin, nóng vội,
thiếu suy nghĩ khi quyết định trực tiếp, đó cũng là sự nguy hiểm. Nhưng
dân chủ trực tiếp cũng có ưu điểm của nó. Aritxtốt thừa nhận rằng: "Số
đông ít hủ bại hơn số ít, chẳng khác nào nhiều nước thì độ bẩn sẽ ít hơn
so với ít nước. Cá nhân dễ bị hãm trong sự nóng giận hay sự cuồng
nhiệt, do đó mà phán đoán của cá nhân dễ bị thiên lệch. Đối với số đông,
khó mà nghĩ rằng, trong một lúc họ đều có thể cuồng nhiệt và sai lầm
hết”[7].
Nhược điểm của dân chủ gián tiếp ở chỗ khi không có sự thống nhất ý
chí trong các cử tri ở khu vực bầu cử, thì đại biểu được bầu lên sẽ đại
diện cho ý chí của ai? Do vậy, sự nhất trí bị phá vỡ thì cũng làm phá
sản luôn khái niệm đại diện.
Tính đại diện trong tương lai cũng cần được xem lại. Đại biểu do dân
bầu càng ngày càng phải giải quyết nhiều công việc, và nhìn chung các
đại biểu ngày càng hiểu biết ít hơn về các việc mà họ phải quyết định.
Khi năng lực của đại biểu dân cử kém, mà lại bảo thủ, đóng kín, khi đó
người dân đương nhiên sẽ ít cảm thấy được đại diện đầy đủ. Người đại
biểu muốn giải quyết được công việc buộc phải dựa vào sức mạnh, nguồn
lực từ bên ngoài.
Hay nói cách khác, nếu muốn thực sự là đại diện cho dân, cho tiếng
nói của dân thì không còn cách nào khác họ buộc phải dựa vào bộ máy giúp
việc và chuyên gia cố vấn (hình thức này mới là chủ đạo trong tương
lai). Như vậy, dân chủ về mặt hình thức là gián tiếp nhưng hóa ra lại có
cả những yếu tố trực tiếp, từ chỗ chỉ cần người đại biểu đại diện cho
nhân dân thuần túy tới việc người đại biểu phải chủ động huy động sức
mạnh, trí tuệ của nhân dân, tranh thủ sự tư vấn của các nhóm chuyên gia
để đại diện cho dân. Dân chủ bán trực tiếp là dân chủ không khép kín, nó
sẽ bao gồm những thiết chế để đảm bảo sự giám sát có hiệu quả, lâu dài
từ phía thiểu số.
Pháp luật với tính chất là hiện thân của lẽ phải, sự công bằng là công cụ, phạm vi, đảm bảo của dân chủ
Dân chủ không thể không đặt trong mối liên hệ với pháp luật. Chính
pháp luật công bằng, nhân đạo, hợp lẽ phải là điều kiện, là đảm bảo để
có dân chủ. Dân chủ không tự trên trời rơi xuống mà là kết quả đấu tranh
lâu dài của nhân dân, là kết quả của quá trình nhận thức, là tất yếu
của tiến bộ xã hội.
Muốn cho pháp luật thực sự là động lực cho dân chủ thì pháp luật phải
được minh bạch hóa, phải gần dân, và quan trọng nhất pháp luật phải là
hiện thân của sự công bằng. Một qui định pháp luật không rõ ràng, không
minh bạch, không đúng đắn sẽ là cơ hội cho người ta vi phạm, lợi dụng
dân chủ. Nếu pháp luật xây dựng trên nền tảng khép kín, chủ quan, khi
thực hiện thì bưng bít, không minh bạch vô hình chung nó sẽ trở thành
công cụ của thiểu số áp đặt lên đa số. Chỉ có minh bạch hóa mới có thể
góp phần ngăn chặn được nguy cơ pháp luật trở thành công cụ phục vụ lợi
ích của một nhóm người thiểu số nào đó.
Tóm lại, dân chủ là khát vọng, mong ước của con người bất luận con
người đó là ai, ở đâu. Trong thế kỷ XXI, dân chủ không còn thuần túy
hiểu theo nghĩa chỉ có đa số mới được bảo vệ, mà đó là sự thừa nhận và
tôn trọng sự đa dạng và bảo vệ lợi ích của thiểu số nhằm đạt được lợi
ích đa phương.
Hình thức của dân chủ cũng không còn đơn thuần là dân chủ trực tiếp
hay gián tiếp, mà là giải pháp tích hợp ưu điểm và hạn chế nhược điểm
của cả hai hình thức này, đó là hình thức dân chủ bán trực tiếp. Dân chủ
chỉ có thể được thực thi và trở thành một giá trị phục vụ cộng đồng khi
có sự phân công, phân cấp hợp lý và khi được đảm bảo bởi một hệ thống
pháp luật đại diện cho những giá trị nhân văn, lẽ phải và sự công bằng.
TS. Nguyễn Minh Tuấn
________________________
Chú thích:
[1] Nhiều tác giả, Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va, Bản
dịch ra từ tiếng Việt có sửa chữa và bổ sung của Nxb Tiến bộ và Nxb Sự
thật, tr. 86. Nhiều nước qui định nguyên tắc này ở trong Hiến Pháp.
Chẳng hạn ở Đức, Điều 20 Khoản 2 Câu 1 LCB qui định: Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Ở Việt Nam, Điều 2 Câu 2 Hiến pháp 1992 qui
định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.”
[2] Donald (1996), Lincoln. Simon and Schuster, 1996, pp. 460–466.
[3] Robert A.Dahl. A preface to Democratic Theory, The University of Chicago Press, Chicago, 1956, tr. 34.
[4] Alvin Toffler, Làn sóng thứ ba (The third wave), Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr. 314.
[5] Alvin Toffler, sách đã dẫn, tr. 339.
[6] Alain Touraine (2003), Phê phán tính hiện đại, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr. 216.
[7] Amartya Sen, Phát triển là quyền tự do, CIEM (Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung ương) và Nxb thống kê, Hà Nội, 2002, tr. 216.