Hà Dương Dực
Tôi
là một cựu học sinh, cựu sinh viên muốn kể lại suy tư, thắc mắc một
thời đi học, cùng một hai việc mình làm cách đây đã 50 năm rồi. Đây
không phải là bài bàn về lý thuyết giáo dục, hay chương trình giáo dục,
nhưng hàm ý trong nhan đề đã muốn nói rằng lý thuyết hay chương trình
giáo dục, ở thời nào chăng nữa nếu muốn tốt đẹp cũng cần có đóng góp của
giới đi học. Giới đi học chúng tôi muốn nói tới là học sinh, sinh viên
trên 18 tuổi, tuổi coi như đã là người lớn vì đã có thể đi lính. Để biện
minh cho suy nghĩ đó chúng tôi xin dài dòng về trải nghiệm cá nhân thời
đi học. Dài dòng vì muốn nhân đó gián tiếp đề cập tới một hai khía cạnh
xã hội miền Nam trước 1975.
Năm
1954 khi di cư vô Nam thì tôi thi và được vô học Trường trung học Chu
Văn An. Trường CVA là trường từ Hà Nội di cư vô, học sinh đại đa số là
dân Bắc Kỳ.
Kỷ niệm đầu tiên với CVA là rủ nhau
đi phá Majestics. Majestics là tòa nhà cao tầng ở cuối đường Tự Do (bây
giờ là "Đồng Khởi") trong đó có rạp chớp bóng và trên lầu hồi đó là nơi
cư ngụ của phái đoàn liên hiệp của Chính phủ miền Bắc do Văn Tiến Dũng
cầm đầu. Không biết từ đâu học sinh CVA được cổ động đi phá Majestics và
đuổi VTD về Bắc. Tôi được Nguyễn Văn Cường (sau này có tục danh là
Cường râu) rủ đi nhưng thật may hay không may tôi bị cảm cúm nặng nên
không đi được.
Sau này tôi mới rõ đó chỉ là
những thủ thuật chính trị không có giá trị cao, những học sinh chủ chốt
tham gia về sau cũng không hề được đãi ngộ hay được huấn luyện để trở
nên thành phần cán bộ nòng cốt của chính quyền.
Giai
đoạn từ 1954 tới 1956 là thời gian tôi học qua 2 năm đệ nhị mới thi đỗ
Tú tài 1. Hai năm đệ nhị qua đi không có gì đặc biệt nhưng năm đệ nhất
thì tý nữa là tôi bị đuổi học. Số là năm đó tôi làm Trưởng ban Văn nghệ
lớp đệ nhất B3. Trường CVA có các ban văn nghệ từng lớp, lại có ban văn
nghệ toàn trường (hồi đó Trần Huy Bích làm Trưởng ban Văn nghệ toàn
trường CVA) mà công việc chính của các ban đó là viết bích báo, diễn
kịch, ca hát... nhân một hai dịp lễ, Tết... Tôi không nhớ các hoạt động
như ca hát hay diễn kịch có được chỉ đạo không vì tôi không tham gia vào
các hoạt động đó. Nhưng việc viết bích báo thì hoàn toàn tự do, không
có giáo sư hay bất cứ ai kiểm duyệt tờ báo trước khi in. Trưởng ban Văn
nghệ là người chịu trách nhiệm về tờ bích báo.
Ban Văn nghệ Đệ Nhất B3 niên khóa 1956-1957 gồm có:
Hai bạn đã mất: Nguyễn Văn Thư và Nguyễn Mạnh Linh.
Hiện
còn sống có: Hà Dương Dực (ở Cali), Lê Trọng Duật (ở Anh), Nguyễn Mạnh
Hùng (ở Washington DC), Nguyễn Công Khanh (ở Washington State), Nguyễn
Như Nguyên (ở Texas), Tạ Chí Đại Trường (ở Cali) và Nguyễn Khánh Vân(ở
Úc) (vì sợ trùng tên nên tôi đề thêm địa chỉ cho đỡ lẫn).
Chín người chúng tôi đặt tên cho tờ bích báo của lớp là Cửu Long Giang.
Tôi
không còn giữ được tờ báo nào và cũng không nhớ là ra được mấy số,
nhưng số sau cùng có bài của tôi và Nguyễn Mạnh Hùng, chúng tôi viết một
bài chỉ trích hệ thống giáo dục thời đó là không đúng, là sai, cần phải
sửa đổi. Tôi không nhớ là mình chê những thiếu sót gì của hệ thống giáo
dục đó, chê như thế nào; nhưng bài báo đã làm thầy Hiệu trưởng Vũ Ngô
Sán và vài giáo sư nổi giận. Tôi nghe nói là quý vị đã định đuổi tôi
nhưng nhờ có hai giáo sư can thiệp nên tôi vẫn còn được học. Hai giáo sư
bênh vực chúng tôi là GS Nguyễn Văn Trung dạy triết và Luật sư, GS
Nguyễn Văn Nghị dạy Pháp văn. GS Nghị không có dạy lớp tôi học. Nhưng
tôi và anh Hùng cũng được nghe khoảng nửa giờ dạy bảo của GS toán thầy
Bạch Văn Ngà. Thầy bắt hai chúng tôi đứng lên để nghe lời dạy bảo.
Các
thầy hồi đó cho là chúng tôi còn trẻ mà láo lếu dám phê bình cả hệ
thống giáo dục của Chính phủ. Đăng bài phê bình đó đã không có hiệu quả
như chúng tôi mong muốn là có bàn cãi, bàn cãi trong giới đi học, dạy
học và bàn cãi trong giới phụ huynh, trí thức... về chương trình chúng
tôi phải học; mặt khác cũng không có ảnh hưởng tiêu cực nặng nề như có
anh lo lắng. Chúng tôi đều không bị trù dập và đại đa số đỗ cuối năm (có
một anh trượt vì bị bệnh). Tôi còn đỗ hạng bình thứ.
Đó
là thử nghiệm đầu tiên ở tuổi 20 của chúng tôi đối với chính thể miền
Nam vào năm 1956. Phải nói rõ là khi chúng tôi viết bài báo thì không có
ý nghĩ cao xa gì, nó chỉ thuần túy là tiếng nói của học sinh đối với
chương trình mình phải học. Chúng tôi cũng đã ở lứa tuổi trên 19, 20
rồi, bắt chúng tôi học cái gì thì cũng phải cho chúng tôi biết, hiểu cái
lý của nó thì chúng tôi mới có sự hăng say và cũng phải cho phép chúng
tôi nêu thắc mắc. Đó là suy tư cần thiết để trưởng thành. Nhưng chúng
tôi đã lầm, xã hội VN thời đó chưa chấp nhận đối thoại giữa thầy và trò,
nhất là sự đối thoại chạm tới gốc rễ của vấn đề.
Vào
dịp Tết năm 1962, khi học Luật năm thứ ba thì tôi đứng ra tổ chức tất
niên và tôi làm thử nghiệm lần thứ hai. Phải nói tiệc tất niên năm đó ở
trường Luật Sài Gòn rất đẹp, rất vui... Nhiều anh chị em đã góp sức cùng
chung vui vì mọi người đều biết rằng học xong là chúng tôi sẽ bị động
viên đi lính. Ngay cả bạn hữu không học Luật cũng tới giúp sức như anh
Đặng Bá Huy, anh giúp trang trí làm đẹp sân trường cho buổi tiệc tất
niên. Nhiều anh chị đã lo các việc lặt vặt cần thiết cho tổ chức một
tiệc vui rất chu đáo. Các chị năm đó rất vui vẻ trổ tài ca nhạc, tiếng
đàn của chị Nguyễn Hữu Thống đã góp phần không nhỏ... Anh Nguyễn Hữu
Thụy học năm thứ hai Luật rất xuất sắc trong vai táo quân, mọi người rất
tán thưởng. Một đêm vui tất niên không thể nào quyên.
Phải
nói ngay lập trường chính trị hồi đó của tôi là không tán thành chính
sách độc tài, gia đình trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng cũng
không tán thành việc muốn thống nhất đất nước bằng võ lực của người cộng
sản ngoài Bắc. Tôi mong muốn có mọi sự thay đổi từ bên trong chính
quyền, từ giới trí thức...
Vì vậy tôi đã dùng
bài diễn văn khai mạc tiệc tất niên để nói lên một nguyện vọng nho nhỏ,
rất nho nhỏ là: sinh viên Luật thì phải khen cái đáng khen và phải chê
cái đáng trách. Chúng tôi chỉ mong khi các tốt cái xấu, nhất là cái xấu
được nêu ra rõ ràng, minh bạch thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn.
Bài diễn văn được đưa trình GS Khoa trưởng Vũ Quốc Thúc, GS Thúc yêu cầu tôi bỏ câu đó nhưng tôi xin phép không bỏ.
Anh
bạn Hoàng Đức Phi (HĐP) xung phong đứng lên đọc bài diễn văn khai mạc.
Chúng tôi được ngay hai gọi GS lên giáo huấn, tựu trung đều cho rằng
chúng tôi còn trẻ chưa từng trải... chưa thể nói như vậy được, mỗi GS
nói chừng 15 – 20 phút.
Chúng tôi phải cám ơn
các vị GS trường Luật vì dầu sao quý vị cũng không vì thế mà đánh trượt
chúng tôi. Tôi vẫn ra trường với bằng Cử nhân để nhận giấy động viên như
đã dự trù. Động viên vô Khóa 14 Thủ Đức năm đó có 19 anh Cử nhân Luật
vì một số đã nại nhiều lý do để xin hoãn. Anh HĐP bỏ đi, sang Pháp qua
ngả Cao Miên. Anh Phi có bàn bạc với tôi và rủ cùng đi nhưng tôi quyết
định ở lại và đi lính.
Ở tuổi 26, tôi đã có thể
vừa đi lính vừa lấy vợ rồi xin biệt phái ở Sài Gòn nhưng tôi đã không có
đủ can đảm làm như vậy. Tôi chỉ có can đảm đi lính, không có đủ can đảm
vừa đi lính vừa lấy vợ.
Trong 19 anh Cử nhân
Luật thì anh Hoàng Phùng Võ vì có tiếng trong nghề dạy học nên được một
vị tướng ở miền Trung mời về làm gia sư. Mười bảy anh được biệt phái ở
Sài Gòn vô các bộ như Bộ Kinh tế 3,4 anh, vô khối Hành chánh Tài chánh
Không quân, 2 anh, vô Nha Quân pháp...
Tôi chọn
lựa bộ binh và được đưa ra Sư đoàn 1. Tôi ở Tiểu đoàn 1, Sư đoàn 1 hậu
cứ ở Gio Linh, tôi đóng đồn ở Lao Bảo và hành quân ở các quận Hiệp Đức,
Quế Sơn, Bạch Mã... khoảng chưa tới một năm. Khi Trường Võ bị Đà Lạt
thiếu giáo sư văn hóa thì tôi nhận được sự vụ lệnh chuyển về đó, khi đó
tôi cũng được vị Đại tá, Chỉ huy phó Quân đoàn 1 (?) cũng cùng lúc được
bổ nhiệm về làm Chánh võ phòng cho Quốc trưởng Phan Khắc Sửu, muốn tôi
theo ông để lo văn thư cho ông. Ổng hứa nếu tôi theo ông thì ông bảo đảm
là tôi không bao giờ phải ra trận nữa, nhưng ông cho tôi lựa chọn giữa
Sài Gòn và Đà Lạt; tôi đã chọn Đà Lạt.
Kể ra nếu
tôi quả tình muốn được biệt phái thì cũng không khó. Hồi đó ông Nguyễn
Ngọc Thơ làm Phó tổng thống kiêm Bộ trưởng Bộ Kinh tế. Ông Thơ lại rất
quý bố tôi, khi đó làm Tổng giám đốc Nha Công kỹ nghệ. Anh họ tôi Ông Hà
Dương Hoán khi đó là Đại tá chỉ huy khối Hành chánh Tài chánh Không
quân.
Ở thời điểm đó chúng tôi nhận định rằng chính thể miền Nam dầu sao cũng có tự do hơn ở miền Bắc; vậy thì vẫn phải bảo vệ.
Đi
lính, không sợ, không trốn tránh trách nhiệm, không đùn đẩy trách nhiệm
đó cho người khác là trách nhiệm của thanh niên, nhất là thanh niên
Việt Nam với quá khứ bốn ngàn năm giữ nước. Như đại đa số thanh niên VN
mọi thời đại tôi không trốn trách nhiệm.
Đừng hỏi tôi được gì, mất gì khi làm bổn phận đi lính.
Hai
mươi tuổi chúng tôi phê bình chương trình trung học, 26 tuổi chúng tôi
đòi hỏi sinh viên Luật phải khen cái đáng khen, chê cái đáng trách. Quả
thật tuổi trẻ nhiều hoài bão, nhiều ước mơ, và chúng tôi đã được dạy bảo
nhưng những lời dạy bảo không có tính thuyết phục vì căn bản không dựa
trên trao đổi tương kính, thân ái, bình đẳng, tự do. Chúng tôi hy vọng
đóng góp rất nhỏ nhưng không được.
Đã 50 năm
trôi qua, tình hình đất nước đã khác, nhận thức cũng phải khác, nhưng
tôi tin rằng ngày nay không thiếu thanh niên, học sinh có những mong mỏi
nhỏ nhoi như của chúng tôi ngày đó. Vì chẳng qua đó là tâm lý bình
thường, tâm lý tò mò thắc mắc, muốn học hỏi, muốn thử thách ý kiến của
mình, muốn mài giũa để tiến lên, muồn cuộc đời tốt đẹp hơn, và sẵn sàng
nhận trách nhiệm.
Ngày đó điều chúng tôi nói đã rơi vào hư không.
Thời
nào cũng vậy, nước nào cũng thế, nếu thanh niên ở tuổi đi lính để bảo
vệTổ quốc lại không được phép đối thoại với quý vị về những vấn đề của
quốc gia mà chúng tôi phải hy sinh để bảo vệ thì quý vị có nghĩ rằng quý
vị đã đối xử với con cháu một cách công bình không?
Quý
vị trí thức, Giáo sư ngày nay có vấp vào khuyết điểm của thời xưa hay
không? Cây cam trồng ở phương Nam thì ngọt, trồng ở phương Bắc thì chua,
hẳn là quý vị đã nghe nói truyện cổ tích đó.
Thanh
niên là Con Người. Con Người còn trẻ rất cần một khung cảnh xã hội cởi
mở thích hợp để trưởng thành, để sẵn sàng làm bất cứ gì cần thiết cho xã
hội, cho Đất Nước, cho Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc. Chúng tôi có quyền
nói lên tiếng nói chân thành nho nhỏ không? Chúng tôi có đáng được phép
đối thoại với quý vị không?
Tôi không được đọc
hết các bài quý vị trong nước viết về giáo dục, về văn hóa, về "trồng
người"... nhưng tôi mong cho thanh niên ngày nay may mắn hơn chúng tôi
ngày xưa, xin đừng nói một chiều, xin nhìn thấy hoài bão của học sinh,
sinh viên, chúng tôi là con người. Xin nhìn qua tấm gương trong sáng để
thương lấy đám con cháu của quý vị.
Trong tinh thần tương kính thân ái bình đẳng tự do, đối thoại Thầy/Trò là cần thiết.?*
H.D.D.
*
Chúng tôi không dùng dấu "phảy" giữa các chữ:tương kính thân ái bình
đẳng tự do là có ý nghĩ rằng đó là bốn nhân tố không thể thiếu, không
thể chia rẽ trong đối thoại Thầy/Trò.
Dấu chấm
sau câu trên chứng tỏ chúng tôi tin như vậy. Dấu hỏi là để bày tỏ sự
kính trọng của chúng tôi đối với quý vị Giáo sư, học sinh, sinh viên
trong nước, và sẵn sàng nghe ý kiến khác.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN