VỀ CỘI NGUỒN VÀ HAI CUỘC THIÊN DI CỦA NGƯỜI VIỆT
KS. PHAN DUY KHA
Từ trước đến nay, khi nghiên cứu về thời
kỳ hình thành cộng đồng dân tộc ta, các nhà nghiên cứu đều cho rằng
nguồn gốc người Việt được hình thành từ phía Bắc mà trung tâm là vùng
Việt Trì, Phong Châu (Vĩnh Phú) rồi tiến dần xuống phía Nam. Quan niệm
chung hiện nay đều như vậy. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về vùng khu Bốn cũ,
chúng ta đều nhận thấy một điều đặc biệt, đó là: cho đến hiện nay, vùng
khu Bốn cũ mà trung tâm là Nghệ Tĩnh vẫn còn bảo tồn được nhiều nhất
ngôn ngữ, phong tục tập quán, lối sống của người Việt cổ. Xin trích một
đoạn trong cuốn Chấn hưng các vùng và tiểu vùng văn hóa ở nước ta hiện
nay (Huỳnh Khái Vinh chủ biên – NXB Chính trị quốc gia – 1995): “Xét về
không gian văn hóa, vùng đất này là nơi gạn lọc và truyền giữ cho mai
sau những gì là tinh hoa độc đáo, những gì là bản sắc dân tộc… Vùng Hà
Tĩnh vì thế còn giữ được một cách độc đáo nhất vốn từ vựng, lời ăn tiếng
nói của cư dân Việt cổ (trang 52-53).
Khi đi sâu tìm hiểu ngôn ngữ, phong tục
tập quán, lối sống, sinh hoạt của vùng Nghệ Tĩnh (nói riêng) và khu Bốn
cũ (nói chung), chúng ta thấy có hai điều đáng ngạc nhiên. Một là, sự
bảo tồn ngôn ngữ Việt cổ. Hai là, sự trùng hợp kỳ lạ giữa những từ ngữ
cổ của vùng Nghệ Tĩnh (nói riêng) và khu Bốn cũ (nói chung) với ngôn ngữ
cổ của dân tộc Mường (xem thêm TGM số 158). Phải chăng, như một số tác
giả đã giải thích: do điều kiện địa lý vùng Nghệ Tĩnh như một cái cuống
phễu, nền văn hóa, phong tục, lối sống của người Việt cổ từ phía Bắc
tràn xuống phía Nam, đi qua khu Bốn cũ, gặp cuống phễu (tức địa hình eo
hẹp) nên dừng lại và đọng lại ở đây (có thể xem cuốn sách đã dẫn ở trên
để rõ hơn về cách giải thích này). Nếu giải thích như vậy thì chúng ta
sẽ gặp hai điều bất hợp lý. Một là, nếu coi cội nguồn của người Việt
khởi đầu từ phía Bắc rồi tràn xuống phía Nam thì tại sao ở các vùng phía
Bắc (trong đó có cả nơi được coi là cái nôi của người Việt cổ là Vĩnh
Phú) lại không bảo tồn được phong tục tập quán, lối sống, ngôn ngữ của
người Việt cổ như ở vùng Nghệ Tĩnh nói riêng và khu Bốn cũ nói chung?
Hai là, ở vùng Nghệ Tĩnh nói riêng, từ xưa việc giao lưu với các vùng
khác rất khó khăn do điều kiện thiên nhiên hiểm trở (sách Đại Nam nhất
thống chí gọi là tứ tắc, tức bốn bề hiểm trở). Nếu sự giao lưu khó khăn,
thì đáng lý ra, việc chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Việt cổ (từ ngoài
vào) sẽ ít hơn, mờ nhạt hơn các vùng khác, chứ sao lại đậm đặc nhất, tập
trung nhất như nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá?
Để lý giải được những điều bất hợp lý
trên, chúng ta không còn cách nào khác là thừa nhận vùng Nghệ Tĩnh
nói riêng và khu Bốn cũ nói chung là cái nôi, là nơi phát sinh đầu tiên
của người Việt. Lập luận này tưởng chừng như võ đoán nhưng lại là hợp
lý. Bởi vì không ở nơi nào lưu giữ, bảo tồn được nếp sống, phong tục tập
quán, ngôn ngữ của một dân tộc bằng chính nơi đã phát sinh ra dân tộc
đó. Sau đây là một số luận điểm của chúng tôi về vấn đề này:
Chúng ta hãy quay trở lại khoảng 5.000
năm về trước ở nơi đã phát sinh ra những cộng đồng người Việt đầu tiên.
Đó là vùng sông Mã, sông Cả (tức sông Lam). Lúc này cư dân sống rải rác
theo các triền núi, các gò đồi thấp bằng nghề phát nương đốt rẫy. Còn ở
vùng đồng bằng là đất sình lầy, chua mặn, hay bị ngập lụt nên chưa được
khai phá (việc khai phá vùng đồng bằng được tiến hành muộn hơn so với
vùng gò đồi). Từ vùng gò đồi của khu Bốn cũ, cư dân phát triển, tiến dần
ra phía Bắc. Theo quy luật chung là phát triển ra bốn phía, nhưng ở
trường hợp này phía Đông đã bị biển ngăn cản, về phía Tây bị chặn bởi
dãy Trường Sơn (phía Nam, chúng tôi chưa có cơ sở để khẳng định). Về
hướng Bắc, người Việt men theo các triền núi thấp, các vùng gò đồi Thanh
Hóa, Hòa Bình, tiến dần ra Vĩnh Phú. Tại vùng Việt Trì, Phong Châu
(Vĩnh Phú), gặp được vùng gò đồi trung du, đất đai rộng rãi, màu mỡ, rất
thuận tiện cho việc phát triển nghề nông (trải hàng ngàn năm canh tác,
đất đai mới bạc màu như ngày nay). Gặp điều kiện thuận lợi, người Việt
phát triển mạnh và dẩn dần quần tụ ở đây đông đúc hơn, thành một bộ tộc
hùng mạnh. Đây là thời điểm ra đời của quốc gia Văn Lang của các vua
Hùng (khoảng thế kỷ VII trước Công nguyên TCN). Cuộc thiên di này kéo
dài khoảng vài ngàn năm và là thời kỳ mà Lĩnh Nam chích quái đã ghi lại
(theo truyền thuyết): Cư dân sống ven rừng… lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ
tranh làm chiếu, lấy nước cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung
lư làm cơm, lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối. Phát
nương đốt rẫy, đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm,
bắc cây làm nhà tránh hổ sói .. Dấu vết để lại của vệt thiên di này là
những địa bàn cư trú của dân tộc Mường hiện nay. Dân tộc Mường là những
người Việt cổ ở lại núi, là hậu duệ của dòng người Việt thiên di đầu
tiên này. Điều đó giải thích vì sao có sự đồng nhất giữa ngôn ngữ Việt
cổ vùng Nghệ Tĩnh với ngôn ngữ Mường cổ. Chúng tôi gọi đây là cuộc thiên
di thứ nhất (trong quá trình một bộ phận cư dân thiên di lên phía Bắc
thì một bộ phận khác cũng đã tiến dần xuống đồng bằng, lập thành bộ tộc
Việt Thường với trung tâm là Ngàn Hống, có trình độ văn minh cao, đã có
chữ viết, như chúng tôi đã đề cập – xem TGM số 158).
Từ vùng Việt Trì, Phong Châu (Vĩnh Phú),
người Việt dần dần phát triển xuống đồng bằng (phía Bắc, Đông Bắc và
Tây Bắc đều bị ngăn cản bởi rừng núi hiểm trở). Lúc này kỹ thuật canh
tác đã khá hơn, cư dân đông đúc hơn. Đồng bằng là vùng sình lầy, ngập
lụt, chua mặn, việc cải tạo khó hơn, nhưng khi đã cải tạo được thì lại
mở ra hướng phát triển mạnh cho nghề nông. Đây là thời kỳ mà sách Thủy
kinh chú của Trung Hoa đã từng ghi lại: Thuở xưa Giao Chỉ đất đai có
ruộng Lạc, ruộng ấy theo nước thủy triều lên xuống mà làm, dân khẩn
ruộng ấy mà ăn nên gọi là dân Lạc. Xuống đồng bằng, gặp được châu thổ
sông Hồng rộng rãi phì nhiêu, bộ tộc Văn Lang càng mạnh, thu phục dần
các bộ tộc khác, tiến dần xuống phía Nam và thu phục luôn nửa phía Bắc
của bộ tộc Việt Thường (có thể lúc này đã suy yếu). Từ đó, ông cha ta
tiến dần xuống phương Nam cho đến tận mũi Cà Mau. Cuộc thiên di này kéo
dài từ thời Hùng Vương (thế kỷ VII – TCN) cho đến khoảng thế kỷ XVII –
XVIII, tức khoảng 2.500 năm. Chúng tôi gọi đây là cuộc thiên di thứ hai.
Như vậy, vùng Việt Trì, Phong Châu (Vĩnh Phú) là điểm cuối cùng của
cuộc thiên di thứ nhất và là điểm khởi đầu cho cuộc thiên di thứ hai. Ý
nghĩa của Đền Hùng, vua Hùng, theo chúng tôi là ở chỗ này.
Các nhà nho của ta xưa (và một số nhà
nghiên cứu hiện nay) chỉ nhìn thấy cuộc thiên di thứ hai. Vì vậy, họ cho
rằng người Việt của ta từ phía Bắc tràn xuống. Vì không giải thích được
trước thời các vua Hùng, người Việt đã từng ở đâu, họ bèn suy luận theo
lôgíc thông thường cho rằng trước thời vua Hùng, người Việt đã từng ở
phía Bắc của vùng Phong Châu – Việt Trì (Vĩnh Phú). Nhưng vì từ Vĩnh Phú
ngược trở lên phía Bắc toàn rừng núi hiểm trở, không thuận lợi cho sự
sinh tồn và phát triển của dân cư, họ bèn đẩy… nguồn gốc người Việt lên
tận hồ Động Đình (Trung Quốc). Động Đình cũng là tên vùng đất tả ngạn
sông Hồng từ ghềnh Ngọc Tháp đến ngã ba Hạc. Đây là một vùng đất có
nhiều đầm hồ. Có lẽ từ cái tên Động Đình này mà các nhà nho xưa đã hiểu
nhầm, tưởng tượng ra vùng hồ Động Đình bên Trung Hoa rồi đồng nhất người
Việt của ta với các nhóm cư dân Bách Việt của Trung Hoa chăng? Chính vì
vậy, họ “sáng tác” ra việc Kinh Dương Vương làm vua ở châu Kinh, châu
Dưỡng bên hồ Động Đình. Chúng tôi cho rằng đây là một sai lầm hết sức
lớn của các nhà nho mà trong nhiều bài báo, chúng tôi đã phân tích. Một
số nhà nghiên cứu hiện nay của ta cũng đi theo lối mòn của những quan
điểm sai lầm này (có thể xem cuốn Việt Nam: Thần thoại và truyền thuyết
của tác giả Bùi Văn Nguyên). Cư dân Việt cổ làm sao có thể vượt qua được
vùng rừng sâu núi hiểm của Thập vạn Đại sơn của Trung Hoa và vùng núi
Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang của ta để chạy dài xuống tận
Việt Trì, Phong Châu (Vĩnh Phú)? Trong suốt 1.000 năm Bắc thuộc, dân tộc
ta vẫn bám trụ trên đất đai của mình, vậy thì trước đấy hàng ngàn năm
sao có thể xảy ra cuộc thiên di ồ ạt như thế? Có ai đuổi chúng ta đâu mà
phải bức bách, mạo hiểm vượt qua bao rừng núi hiểm trở như thế. Trong
quá trình làm ăn sinh sống, các cộng đồng tộc người có ý thức đi tìm
những chỗ tốt hơn, thuận tiện hơn để canh tác. Việc di cư đó tiến hành
một cách tự phát với tốc độ rất chậm. Việc các cộng đồng tộc người thiên
di là theo lẽ tự nhiên, theo kiểu đất lành chim đậu và kéo dài hàng mấy
ngàn năm chứ đâu phải một sớm một chiều. Các nhà nho của ta đã không
hiểu được điều này. Vả lại, trong lịch sử, có một số các cá nhân từ
Trung Hoa vì một lý do nào đó sang cư trú bên ta rồi lập thành một dòng
họ, các nhà nho càng tin người Việt của ta có nguồn gốc từ Trung Hoa.
Theo chúng tôi, đây là một quan niệm mơ hồ cần được đính chính” Người
Việt là chủ nhân của nền văn minh Đông Sơn rất độc đáo sao lại có thể
tìm nguồn gốc ở một nơi nào khác? (xin được nói thêm: các di vật khảo cổ
tiêu biểu từ thời đồ đá cũ, qua thời đồ đá mới đến thời đại đồng thau,
đa phần nằm trên địa bàn Thanh, Nghệ, Tĩnh như: Núi Đọ, Quỳnh Văn, Đa
Bút, Thạch Lạc, Lang Vạc, Đông Sơn, Thiệu Dương…; điều đó càng củng cố
quan điểm của chúng ta về nguồn gốc người Việt ỏ ngay trên đất nước ta
mà điểm xuất phát là địa bàn khu Bốn cũ).
Hình ảnh của cuộc thiên di thứ nhất còn
được lưu lại và truyền thuyết hóa trong một số thần tích, ngọc phả.
Không phải vô cớ mà Ngọc phả Hùng Vương lại ghi nhận Ngàn Hống là Kinh
đô đầu tiên của người Việt. Lại càng không phải ngẫu nhiên mà một số
ngọc phả, thần phả ở đền thờ các nhân vật thời Hùng Vương lại cho rằng
Kinh Dương Vương trong thời kỳ đóng đô ở Ngàn Hống đã lập lị cung ở ngã
ba Hạc và phái các con mình là Hoàng Trị, Hoàng Tam ra cai trị vùng đất
Việt Trì, Phong Châu (Vĩnh Phú). Đây chính là hình ảnh đã được truyền
thuyết hóa của cuộc thiên di lần thứ nhất. Chúng ta có thể coi đây là
cuộc Bắc tiến chiếm lĩnh dần vùng đồi núi thấp và trung du. Dấu vết để
lại của cuộc thiên di này như chúng tôi đã đề cập, đó là vùng cư dân của
dân tộc Mường miền Tây Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình, Vĩnh Phú (xem bản
đồ phân bố dân cư hiện nay).
Về cuộc thiên di thứ hai, lịch sử đã ghi
lại cụ thể, ở đây không có gì phải bàn thêm. Chúng ta có thể coi đây là
cuộc Nam tiến chinh phục dần vùng đồng bằng và ở giai đoạn sau là cuộc
mở mang lãnh thổ có ý thức của các triều đại phong kiến Đại Việt.
Chúng tôi cho rằng đây là hai cuộc thiên
di cơ bản trong lịch sử dân tộc ta. Tất nhiên, trong mấy ngàn năm dựng
nước còn có những cuộc di cư lẻ tẻ tiến dần lên các vùng cao, vùng xa,
những cuộc thiên di của các dân tộc anh em để làm nên diện mạo phong phú
của đất nước ngày nay.
* Nguồn: NHÌN LẠI LỊCH SỬ, nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2003, Tác giả: KS. PHAN DUY KHA – TS. LÃ DUY LAN – TS. ĐINH CÔNG VĨ.