Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

THÂN PHẬN CỦA MỘT TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VIỆT NAM BỊ QUÊN LÃNG

Từ sau ngày Nền Đệ Nhị Cộng Hòa bị bức tử, nước Việt Nam Cộng Hòa bị xóa tên trên bản đồ thế giới sau khi cộng quân bắc Việt cưỡng chiếm hoàn toàn miền nam, không ít nhân sỹ trí thức của miền Nam Việt Nam bị đưa vào các trại lao cải, mà nhà cầm quyền CSVN gọi với ngôn từ rất hoa mỹ là TRẠI CẢI TẠO, nhưng thực chất đó là những lò sát sinh không hơn không kém. 
 
Theo số liệu của Hội Cựu Tù Chính Trị Việt Nam thì quân số của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị tập trung trong các trại cải tạo này gồm 32 sỹ quan cấp Tướng, 366 sỹ quan cấp Đại Tá, 1,700 sỹ quan cấp Trung Tá, 5,500 sỹ quan cấp Thiếu Tá và 72,000 ngàn sỹ quan cấp Úy. Sở dĩ chúng tôi nhắc lại những số liệu trên đây bởi người tù chính trị mà chúng tôi nhắc đến trong bài viết này cũng là một hạ sỹ quan của QLVNCH, ông Trần Tư sinh ngày 20 tháng 01 năm 1941, tại Thừa Thiên – Huế, là hạ sỹ quan thông dịch của một đơn vị biệt kích Mỹ tham chiến tại Việt Nam. Sau năm 1975, trong một nổ lực đi tìm tự do, ông Trần Tư bị bắt đưa đi cải tạo tại tỉnh Minh Hải từ năm 1976 cho đến năm 1981. Năm 1986 ông Trần Tư vượt biên thành công và được đến định cư tại Otario, California, Hoa Kỳ.
Năm 1990 ông Trần Tư  nhập nội trong vai một nhà từ thiện, mang quần áo, sữa bột và thuốc men về trợ giúp cho các bệnh nhân đang được điều trị tại trại phong Thanh Bình, xã An Khánh, Thủ Thiêm, bên kia sông Sài gòn và chính thời gian này, ông đã xây dựng và phát triển được Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam, với một khát vọng là phục hưng dân tộc, giành lại tự do dân chủ và nhân quyền cho dân tộc Việt Nam.
Năm 1993, ông Trần Tư trở lại Việt Nam để tiếp tục phát triển đội ngũ của Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam, chẳng may, khi về đến Sài gòn, chưa hoạt động được bao lâu thì ông Trần Tư bị bắt, cơ quan anh ninh của CSVN khám xét nhà của ông ở số 354 An Bình, An Phú, quận Thủ Đức, và đã tịch thu một số tiền là 195.000 Mỹ kim, cùng một số tài liệu của tổ chức. Ông Trần Tư bị tòa án của CSVN tại Sài gòn xét xử với tội danh âm mưu lật đổ chính quyền và kết án ông mức án chung thân và bị đưa ra thi hành án tại trại tù A20 Xuân Phước, đến ngày 28 tháng 10 năm 1994 sau vụ nổi dậy của tù chính trị tại đây, ông Trần Tư cùng một số tù chính trị trọng phạm như Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, Giáo Sư Nguyễn Đình Huy, Thượng Tọa Thích Hải Đăng, ông Trương văn Sương, ông Lê trọng Quang, Trần Mạnh Quỳnh, Lý Tống và hàng trăm tù chính trị khác bị chuyển ra Bắc, thi hành án tại trại tù Ba Sao, Nam Hà. Nhiều người đã vĩnh viễn gởi lại nắm xương tàn ở trại tù khắc nghiệt này, phần vì đói khát, phần vì bệnh tật không được điều trị đầy đủ thuốc men, phần vì bị hành hạ, bỏ đói bỏ khát ở những khu biệt giam. Một số tù nhân khác lần lượt đã mãn án, đã trở về với gia đình, đã được đi định cư ở Hoa Kỳ và ở các nước tự do khác, riêng ông Trần Tư, bởi sự bất khuất và hiên ngang của một tù nhân chính trị, không khuất phục, không cúi đầu trước bạo quyền, không khuất phục trước các tên quản giáo, ông vẫn tiếp tục bị giam cầm bị hành hạ tại nhà tù nhỏ Ba Sao, khi ông đã bước sang tuổi 71, sau ngót 19 năm tù đày lao lý. Ở cái tuổi thất thập cổ lai hy này không biết còn mối nguy hiểm nào cho chế độ cộng sản từ người tù xuyên thế kỷ này nữa không, sao đảng và nhà nước CSVN vẫn còn úy kỵ điều gì mà chưa trả tự do cho người tù chính trị này. Chúng tôi cũng không biết được liệu các Chi Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam ở hải ngoại, các cá nhân, tổ chức ủng hộ phong trào dân chủ quốc nội và tổ chức Quỹ Tù Nhân Lương Tâm của người Việt ở hải ngoại có còn nhớ đến người tù chính trị Trần Tư hay không? Kính mong quý tổ chức, quý hội đoàn và cá nhân hãy lên tiếng, hãy khẩn cầu Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế kịp thời can thiệp cho người tù xuyên thế kỷ Trần Tư, bởi xét cho cùng việc xây dựng và phát triển Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam chỉ là một thiện chí của một công dân nhằm cải cách xã hội dân sự cho Việt Nam, nhằm phục hồi đầy đủ các quyền tự do dân chủ và quyền làm người cho dân tộc Việt Nam, là một trong những yếu tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội, giúp cho đất nước Việt Nam hưng thịnh, phú cường. Vậy sao lại kết tội ông Trần Tư âm mưu chống lại nhân dân Việt Nam được.
Mong lắm thay!

Ngày 16 tháng 9 năm 2012
Nguyễn Thu Trâm

THƯ KHÁNG NGHỊ VỀ CHẾ ĐỘ GIAM GIỮ PHẠM NHÂN HIỆN NAY
Trại Nam Hà, ngày 1.4.1994

Kính gửi:  Thủ Tướng Chính Phủ
         Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Đồng Kính Gửi: 
          – Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao
          – Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ
(Nhờ Ban Giám Thị Trại Ba Sao, Nam Hà, chuyển giao)

Thưa Quí Vị,
Chúng tôi ký tên dười đây là Đoàn Viết Hoạt, Trần Tư, Lý Tống và Trần Mạnh Quỳnh hiện đang bị giam giữ tại trại giam Ba Sao, Nam Hà. Sau khi đã trải qua nhiều trại giam khác nhau từ Nam ra Bắc (Chí Hòa, Thủ Đức Z30D, Xuân Phước, Nam Hà) chúng tôi nhận thấy chế độ giam giữ phạm nhân hiện nay có nhiều điều không phù hợp các công ước quốc tế về quyền con người, các công pháp và tập tục luật pháp quốc tế, và ngay cả luật pháp Việt Nam hiện nay. Chúng tôi xin gửi đến Quí Vị kháng thư này liên quan đến những vi phạm mà chúng tôi đã thực tế trải qua hoặc trực tiếp biết được.
A. Về Chế Độ Giam Giữ và Sinh Hoạt 
1. Phạm nhân thuộc mọi thành phần xã hội (tu sĩ tôn giáo, trí thức, công chức nhà nước, các thành phần “xã hội đen”…) và mọi tội phạm khác nhau (hình sự, kinh tế, chính trị…) đều bị giam chung và chịu những hình thức sinh hoạt ăn ở, lao động như nhau. Điều này xẩy ra ở hầu hết các trại giam. Chế độ giam giữ này đã dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cho quá trính cải tạo của các phạm nhân; nhân phẩm, đạo đức và phong cách sống văn minh, có văn hóa không những không được phát huy mà còn bị thoái hóa. Thiểu số những người có nhân cách và phẩm chất sống tốt đẹp bị “hình sự hóa” bởi sự áp đảo và trấn lột của đa số quen lối sống của “xã hội đen”.
2. Vì nhà tù có quá đông phạm nhân nên chỗ ăn ở quá chật chội (50cm, 60cm mỗi người), tiêu chuẩn vệ sinh rất thấp, trật tự an tòan trong trại khó bảo đảm (trộm cắp, đánh lộn, ức hiếp, trấn lột…)
3. Hầu như toàn bộ thời gian giam giữ được dành cho lao động. Các sinh hoạt vui chơi giải trí, thể dục thể thao, học tập gần như không có, hoặc nếu có cũng không đáng kể. Ở hầu hết các trại giam nhiều hình thức vui chơi giải trí và học tập còn bị nghiêm cấm (cấm ca hát, cấm học tập ngoại ngữ và kể cả văn hóa…)
4. Sức khoẻ phạm nhân không được bảo đảm. Lao động nhiều và năng nhọc nhưng ăn mặc, ở, nghỉ ngơi dưới mức trung bình. Khi đau ốm, thuốc men thiếu thốn. Bệnh xá thường chật hẹp thiếu vệ sinh, người bệnh nhẹ bị nhốt chung với người bị bệnh truyền nhiễm…
5. Quan hệ con người trong trại giam thiếu tình thương và thiếu tính giáo dục. Ngôn ngữ sử dụng giữa cán bộ và phạm nhân thường thiếu văn hóa (mày – con, mày – tao, chửi mắng…). Còn nhiều trường hợp cán bộ đánh đập phạm nhân, có khi bằng cả roi vọt, và bắt phạm nhân phục vụ riêng cho mình.
B. Việc Tổ Chức Lao Động Cải Tạo
1. Việc bắt buộc mọi phạm nhân không phân biệt tội trạng và án phạt đều phải lao động tay chân, thường là nặng nhọc, 8 giờ một ngày, có khi cả chủ nhật, được giải thích là để thi hành pháp lệnh thi hành án mới ban hành. Chúng tôi cho rằng cần phải xét lại ngay cả cơ sở pháp lý của việc bắt buộc mọi phạm nhân phải lao động tay chân nặng nhọc trong thời gian bị giam giữ vì những lý do sau đây:
a. Hiến pháp 1992, điều 71 qui định: “Không một công dân nào bị coi là có tội khi chưa bị Tòa án xét xử với một bản án có hiệu lực pháp lý”. Điều này cho thấy chỉ có bản án do tòa án phán quyết mới có giá trị pháp lý để thi hành. Mọi việc thêm vào án phạt của tòa án dưới bất cứ hình thức nào và do bất cứ cá nhân hoặc cơ quan nào trong thời giam thi hành án là hoàn toàn vi phạm tinh thần và nội dung của điều 71 Hiến Pháp hiện nay.
b. Pháp lệnh thi hành án là một văn bản pháp lý dưới luật, tất nhiên cũng không thể đi ngược lại tinh thần và nội dung của điều 71 cũng như các điều khoản khác của Hiến Pháp, đạo luật căn bản của mọi đạo luật. Nói cách khác, việc qui định các hình thức thi hành án không thể vượt ra ngoài phán quyết của Tòa án liên quan tới thời gian và hình thức án phạt. Cụ thể hơn nữa, việc tổ chức lao động, nhất là lao động tay chân nặng nhọc cho phạm nhân chỉ có thể áp dụng một cách hợp hiến và hợp pháp đồi với những bản án mà toà án có quy định phạt lao động với những hình thức cụ thể (lao động nhẹ, lao động khổ sai…).
c. Toà án hiện nay của nước ta chỉ có án phạt tù giam mà chưa qui định có hay không có lao động, cũng như lao động nhẹ hay lao động khổ sai. Mọi qui định về lao động dười bất cứ hình thức nào do đó đều không phù hợp với án lệnh và phán quyết của tòa án hiện nay, và nếu vẫn đem thi hành thì vừa vi phạm điều 71 của Hiến Pháp hiện nay, vừa vi phạm tập quán và công pháp quốc tế, và đặc biệt vi phạm các công ước quốc tế về dân quyền và nhân quyền liên quan tới tòa án, quá trình xét xử và giam giữ.
2. Hình thức tổ chức lao động và cường độ lao động hiện nay ở các trại giam mà chúng tôi đã đi qua hoàn toàn thiên nặng về hình phạt và về hiệu quả kinh tế. Các trại giam thường tính toán thành quả lao động của phạm nhân như tính toán lời lỗ của một cơ sở kinh doanh sản xuất ngoài xã hội. Có trại (Nam Hà) đặt hẳn trách nhiệm của phạm nhân là “làm giầu cho trại”. Thực tế này đã gây ra những hậu quả tai hại như sau:
a. Phạm nhân luôn luôân có ấn tượng là họ bị “bóc lột sức lao động”. Thêm vào đó, tình trạng ăn ở, sinh hoạt tồi tệ trong trại giam như mô tả ở trên càng tác động xấu vào quá trình cải tạo của phạm nhân. Chúng tôi cho rằng hình thức tổ chức lao động cũng như ăn ở như hiện nay ở các trại giam hoàn toàn không đạt được hiệu quả “cải tạo” như mong muốn.
b. Việc bắt phạm nhân lao động cực nhọc để sinh lời cho trại giam và đóng góp vào ngân sách quản lý trại giam của chính phủ tạo ra một hình ảnh không tốt đẹp về nhân quyền và chế độ lao tù của nước ta.
c. Lao động trong thời gian giam giữ chỉ có thể cải tạo khi đem lại lợi ích cho phạm nhân. Muốn thế, lao động cần gắn liền với huấn nghệ, học tập nâng cao kiến thức và văn hóa tổng quát, cũng như với một môi trường sống nhân đạo, thân ái, văn minh và tiến bộ. Điều này đòi hỏi phải tổ chức lại chế độ lao động học tập đồng thời với việc cải thiện mạnh mẽ và sâu rộng mọi mặt sinh hoạt của trại giam.
C. Kiến Nghị:   
Từ những nhận định trên, chúng tôi kiến nghị với quí vị những điều cụ thể sau đây:
1. Thành lập một Ủy Ban Quốc Gia thanh sát các trại giam.  Ủy Ban này phải hoàn toàn độc lập với các cơ quan liên hệ tới việc tổ chức và điều hành các trại giam, đặt trực thuộc Quốc hội hay Thủ Tướng để thanh tra tất cả các trại giam, đồng thời nghiên cứu và đề nghị các biện pháp cải thiện chế độ lao tù.
2. Rà soát lại các văn bản pháp lý liên quan tới mọi khía cạïnh của việc tổ chức và quản lý các trại giam cũng như việc thi hành án phạt của tòa án. Sửa đổi mọi điều vi phạm tinh thần và nội dung Hiếp Pháp hiện hành.
3. Trong khi chờ đợi, cải thiện ngay một số điều liên quan tới lao động và sinh hoạt trong các trại giam để giảm bớt một số mặt tiêu cực và tăng cường tác dụng cải tạo của quá trình giam giữ. Chúng tôi đề nghị cụ thể:
- bỏ mọi hình thức lao động nặng nhọc, giảm bớt giờ lao động;
- tổ chức các lớp học tập văn hóa, ngoại ngữ, nghề nghiệp;
- tổ chức các hình thức sinh hoạt giải trí, văn nghệ, thể dục thể thao;
- tận dụng khả năng và nhân lực của chính phạm nhân để tổ chức các loại sinh hoạt này.
4. Riêng phần chúng tôi, kể từ ngày gửi thư kháng nghị này, chúng tôi sẽ ngưng mọi hình thức lao động chân tay vì lý do như sau:
a. Trong tinh thần và nội dung của bản kháng nghị này, việc ngưng tham gia mọi hình thức lao động chân tay vừa thể hiện tính trung thực của những nhận xét, quan điểm và kiến nghị mà chúng tôi đã trình bầy ở trên, vừa là một đóng góp cụ thể vào quá trình cải thiện chế độ lao tù ở nước ta hiện nay.
b. Vấn đề “cải tạo”, đặc biệt cải tạo qua hình thức lao động chân tay, hoàn toàn không phù hợp với trường hợp chúng tôi là những người đang bị giam giữ với lý do chính trị. Vấn đề đúng sai của tư tưởng và quan điểm chính trị không thể giải quyết đơn thuần bằng quá trình gọi là “lao động cải tạo”.
c. Chúng tôi cho rằng các hình thức lao động tay chân hoàn toàn không phù hợp vơi tình trạng sức khỏe thể xác cũng như năng lực tinh thần và trình độ văn hóa của chúng tôi. Chúng tôi tn rằng trong thời gian còn tạm thời bị “cách ly khỏi xã hội” chúng tôi vẫn có thể đóng góp hoặc chuẩn bị cho sự đóng góp trong tương lai một cách tích cực hơn, hữu hiệu hơn vào quá trình đi lên của đất nước bằng năng lực và hiểu biết của mình hơn là bằng các hình thức lao động bằng chân tay giản đơn và nặng nhọc.
Thưa Quí Vị,
Từ trại giam Nam Hà chúng tôi đã quyết định gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì cho rằng, sau khi đã trực tiếp biết được những gì đang xẩy ra trong các trại giam mà chúng tôi đã đi qua, chúng tôi không thể tự nhận mình là những con người tự trọng, trung thực, thiết tha với tiền đồ của dân tộc mà không nói lên những nhận xét, quan điểm và kiến nghị của mình. Chúng tôi thẳng thắn gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì tin rằng công lý sẽ thắng, nền dân chủ pháp trị sẽ được xây dựng trên đất nước chúng ta; rằng tinh thần nhân đạo, lòng nhân ái trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt sẽ vượt hẳn mọi bất công, lạc hậu và hận thù để tạo ra một không khí chính trị xã hội Đại Phản Tỉnh và Đại Hòa Dân Tộc để mở đường cho việc xây dựng một nước Việt phồn vinh, hạnh phúc và tự do trong thời đại 2000.
Trân trọng kính chào Quí vị.

Đồng ký tên  
Đoàn Viết Hoạt – Trần Tư           
Lý Tống – Jimmy Trần (Trần Mạnh Quỳnh)

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"