Phi Khanh/Người Việt
HUẾ - Nếu
như ban ngày, đất Huế nhộn nhịp bước chân du khách qua những đền đài,
lăng tẩm, thì đêm về, thành phố cố đô trở nên im vắng lạ thường. Rồi đến
12 giờ đêm thì một đời sống khác của thành phố bắt đầu. Ðời sống của
những người nông dân từ các mảnh ruộng, các khu vườn ở ngoại vào thành
phố kiếm sống.
Chợ Ðông Ba
Nói về chợ, có lẽ chợ Ðông Ba tuy không lớn nhất ở Huế nhưng nó nổi
tiếng nhất, một phần nổi tiếng vì đẹp, nằm bên cạnh dòng sông Hương nước
trôi lững lờ. Nhìn về phía Ðông thấy Vỹ Dạ. Nhìn về phía Tây thấy cầu
Tràng Tiền, núi Ngự Bình. Nhìn về phía Nam là đèo Hải Vân mây trắng và
xa xa bên kia đèo là những huyền thoại về vùng “đất mới” của người Việt.
Nhìn về phía Bắc là đền đài rêu phong cùng những phế tích của một thời
hoàng kim...
Mệ Hiền, người có thâm niên hơn hai mươi năm đi bán rau cải chợ đêm
Ðông Ba, cho biết: “Thường thì những người có điều kiện chỉ cần đi mua
sắm ban ngày là đủ, người nghèo thì tranh thủ đi chợ đêm để mua giá rẻ
hơn một chút.”
“Và cả những người buôn bán buổi sớm nữa, nếu bán bún bò chẳng hạn,
thì phải đi chợ đêm để mua rau về cho tươi, có như vậy mới bảo đảm vệ
sinh và thơm ngon. Ai quen đi chợ khuya rồi thì thấy chợ đêm rất hay,
nghỉ một bữa là nhớ, không khí Huế về đêm hơi lạnh, yên vắng và nghe như
cổ tích...”
Chính vì vậy mà chợ Ðông Ba sớm đi vào thơ ca và cũng sớm trở thành điểm hẹn của du khách khi ghé Huế.
Chợ Ðông Ba về đêm im vắng và trầm mặc như chính vùng đất của nó.
Chừng 11 giờ rưỡi đêm, những gánh dưa, gánh cải, hàng cá đồng, rau hẹ,
bánh xèo, bánh bao, bánh chưng, bánh mì bắt đầu ghé về. Kẻ mua người bán
í ới.
Nhưng thú vị hơn cả, có lẽ những chợ đêm ở ngoại ô Huế. Ở đây, người
ta sẽ cảm nhận được cái không khí xa xưa rất cổ độ của vùng đất lắm
vương giả nhưng cũng lắm kẻ bần nông trắng tay này.
Chợ Tây Ba
Cùng nằm trên một nhánh của sông Hương, chợ Tây Ba, một ngôi chợ cổ
nằm phía biển so với chợ Ðông Ba (nhưng lại gọi là Tây - con sóng phía
Tây) có tuổi đời hơn trăm năm với nhiều mái ngói xiêu vẹo, nhiều tấm bia
khác chữ cổ, gốc đa to vài người ôm, vài quán trà, quán cà phê cho mấy
ông xe ôm, mấy o, mấy mệ đi chợ khuya lót dạ...
|
Một chút dư âm chợ đêm còn sót lại lúc bình minh ở chợ Tây Ba. (Hình: Phi Khanh/Người Việt)
|
Anh Huân, người bán quán khuya ở chợ Tây Ba cho biết: “Mình đi chợ
đêm nhiều, từ Ðông Ba, Ðại Lộc, An Cựu, Phú Lộc, An Lỗ Ðông... Mỗi chợ
mỗi vẻ, mỗi ký ức. Nhưng với mình, Tây Ba có nét quyến rũ của một chợ
đêm ngoại ô không nơi nào có được.”
“Cái hồn vía của chợ này là toàn người nghèo, nông dân đến mua, bán
với nhau để rồi sáng mai còn thời gian ra đồng, làm vườn, bôn tẩu kiếm
cơm, đạp xe thồ, chạy xe ôm... Chính vì cùng giới nên cách nói chuyện,
tâm sự của họ cũng dung dị, chân chất và không nói thách, nói đúng giá,
khỏi phải mặc cả.”
“Mọi thứ ở đây đều rẻ hơn nhiều so với mọi chợ, một ly cà phê đen đá
chỉ có bốn ngàn đồng, một cặp bánh chưng chỉ có hai ngàn đồng, nói chung
là sống được cho người nghèo, bởi nghèo nên mới đầu tắt mặt tối, lặn
lội đêm hôm, nếu giá mà mắc thì làm sao nghèo sống cho nổi!”
Cụ Hiên, 90 tuổi, sinh ra trong khu chợ Tây Ba cho biết thêm: “Vì đây
là chợ đông về đêm, nên con nít ở đây trưởng thành rất tốt, học hành đỗ
đạt, không có đứa nào bị ảnh hưởng không khí kẻ chợ mà hư hỏng.”
|
O bán thịt này bảo rằng: “Nhờ chợ đêm mà nhà O thoát nghèo, con O học xong 12 và vừa đậu đại học.” (Hình: Phi Khanh/Người Việt)
|
“Cái hay của chợ đêm là nó hiền hòa, không ồn ào, sợ ảnh hưởng đến
giấc ngủ của người khác, lúc chợ đông là lúc trẻ con đã học bài xong, đi
ngủ. Chính vì vậy mà chợ đêm rất an toàn cho môi trường văn hóa, đạo
đức.”
“Nếu mình còn trẻ để làm lãnh đạo, mình sẽ biến mọi cái chợ ngày trên
đất nước thành chợ đêm tất tần tật.” Cụ Hiên kết thúc trò chuyện bằng
câu này rồi nhấp một ngụm trà.
Ðạo đức... chợ
Tìm hiểu thêm, chúng tôi được biết phần lớn những chợ đêm ở Huế mang
tính “biên ải.” tại sao chợ ngay thành đô, gần thành đô mà lại có tính
“biên ải”?
Cụ Thuận, người cao niên ở xã Quảng An, gần chợ Tây Ba, cho biết:
“Chợ đêm ở Huế có nét đặc thù của nó, những chợ đầu tiên thường nằm ở
vùng đồn trú của lính thú ngày xưa. Có lẽ vì ở ngoài đồn trú xa xôi,
vắng vẻ và buồn nên các ông hay chơi bài, rồi đi ăn khuya, từ đó sinh ra
các bà, các mệ bán hàng đêm, dần dà thành chợ.”
“Mình không biết chợ đêm ở nơi khác như thế nào, chứ ở Huế, chợ đêm
là nơi hội tụ của giới lao động nghèo, cho đến bây giờ cũng thế, và nói
về chợ đêm là y như đang nhắc đến một cái gì đó thuộc về thân phận dân
nghèo. Nó nhắc về những ký ức đèn dầu tù mù mùa Ðông, nhắc về sự chuyển
vận bốn mùa trong đôi quang gánh của người mẹ, bốn mùa vần xoay mà đời
mẹ vẫn nghèo khó, kham khổ....”
|
Một góc các gian hàng bán hoa trong chợ đêm ở Huế. (Hình: Phi Khanh/Người Việt)
|
Câu nhận xét giàu chất thơ, đậm tính nhân văn của cụ Thuận làm chúng
tôi nghĩ đến những con đường mưa trơn trợt, gánh hàng khuya chập chờn
trong sương đêm, dáng nhỏ thó của những người mẹ chắt chiu từng đồng lẻ
gởi con ăn học.
Cứ như thế, những đôi gánh đồng hành cùng chợ khuya, chở theo không
biết bao giấc mơ đèn sách, để mong con mình có cơ hội đổi đời trong một
đất nước, một thể chế mà ở đó, mọi quyền lợi, mọi ước mơ thuộc về kẻ có
quyền, có tiền.