Lê Diễn Đức
Ngày 5 tháng 6, Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh, Nhà xuất bản Tri Thức
đồng tổ chức tại Hà Nội một buổi tọa đàm “Làm sao để thoát Trung?,” thu
hút sự quan tâm của các chuyên gia, trí thức và sinh viên học sinh. Cuộc
thảo luận xoay quanh chủ đề làm sao để thoát khỏi sự ảnh hưởng tiêu cực
và sự lệ thuộc vào Trung Quốc.
Ông Giáp Văn Dương, người sáng lập và điều hành cổng giáo dục trực
tuyến GiapSchool, cho biết, theo thống kê năm 2010 đến 90% tổng thầu các
dự án trong đều rơi vào tay Trung Quốc.
“Nếu kinh tế cứ lẹt đẹt, nền sản xuất không tự chủ, đến cả sách thiếu
nhi cũng chỉ toàn dịch từ Trung Quốc thì làm sao thoát Trung được?,”
ông Dương nói.
Ðập lại sự nghi ngại về khả năng “thoát Trung” của đất nước khi nền
kinh tế chưa thật sự mạnh, Giáo Sư Trần Ngọc Vương, cho rằng, “lệ thuộc
Trung Quốc không phải là định mệnh của dân tộc Việt Nam.”
“Ðúng là có tư tưởng cho rằng nước họ to thế thì làm sao ta thoát
được sự lệ thuộc, rồi “tâm lý nô lệ Trung Quốc” cũng còn nặng nề trong
nhiều tầng lớp nhân dân. Song hãy nhìn cách mà Nhật Bản, Hàn Quốc đã
thoát Trung một cách ngoạn mục, Giáo Sư Vương nhấn mạnh (Tuổi Trẻ Online
ngày 5.06.2014).
Thực ra, xét về địa chính trị, Việt Nam nằm sát sườn Trung Quốc về
phía Nam, trên dòng lưu thông hàng hải qua Thái Bình Dương, chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi văn hóa, ngôn ngữ và các tập quán khác của Trung Quốc,
đã là định mệnh cay đắng của dân tộc Việt. Với vị trí như thế và trước
tham vọng bành trướng không ngừng của người láng giềng phương Bắc, vượt
ra khỏi tầm ảnh hưởng không phải là vấn đề dễ dàng. Nhưng nằm trong khu
vực bị ảnh hưởng khác xa với sự lệ thuộc và bị nô dịch.
Nếu nói người Giao Chỉ thuần túy bây giờ ít còn ai, trong mỗi người
Việt đều ít nhiều có dòng máu Trung Hoa không phải là sai, qua chính
sách đồng hóa của Trung Quốc xuyên suốt một ngàn năm Bắc Thuộc. Thế
nhưng người Việt vẫn là người Việt. Một ngàn năm Trung Quốc đã không
đồng hóa nổi. Dân tộc Việt vẫn giữ được ngôn ngữ và bản sắc riêng của
mình. Mọi cuộc xâm lược của Trung Quốc trên đất liền đều bị người Việt
đánh bại.
Nguyện làm “tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa,” “đánh đến người Việt
Nam cuối cùng” “cho Liên Xô và Trung Quốc,” Ðảng Cộng Sản Việt Nam
(ÐCSVN) đã tạo ra cuộc chiến xâm chiếm miền Nam, nhuộm đỏ cả đất nước
bằng xương máu của 3-4 triệu người.
Ðể giữ ngọn cờ ý thức hệ chuyên chính ấy, ÐCSVN đã không từ bất kỳ
thủ đoạn nào, đưa đất nước dấn sâu vào sự lệ thuộc Trung Quốc và tạo cơ
hội cho Trung Quốc gặm nhấm dần lãnh thổ, nắm giữ yết hầu của cả nền
kinh tế. Nhập siêu từ Trung Quốc hơn 20 tỷ đô la (năm 2013), hàng hóa
Trung Quốc rẻ tiền và độc hại tràn ngập, tạo ra không những một thực tế
mà cả tâm lý mặc nhiên lệ thuộc Trung Quốc trong toàn xã hội. Ðến mức
một dư luận viên phải lo sợ nếu cứ biểu tình phản kháng, Trung Quốc nổi
giận và cấm vận kinh tế, thì Việt Nam nguy kịch!
Quyết bám lấy “láng giềng xã hội chủ nghĩa” để giữ độc quyền cai trị
và lợi ích từ các dự án kinh tế quan trọng nhất do Trung Quốc đầu tư
hoặc làm tổng thầu (EPC) là vũng lầy mà ÐCSVN lặn ngụp trước sự lấn ép
của Trung Quốc về vấn đề chủ quyền.
Phát biểu tại họp báo quốc tế về tình hình Biển Ðông chiều ngày 5
tháng 6 tại Hà Nội, Phó Chủ Nhiệm UƯy Ban Biên Giới Quốc Gia Trần Duy
Hải cho hay, trong hơn 1 tháng qua, kể từ ngày Trung Quốc đặt giàn khoan
HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Việt Nam đã có trên
30 cuộc trao đổi các loại, kể cả ba lần gửi công hàm phản đối.
Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực và thiện chí của Việt Nam, Trung
Quốc đã không những không dừng lại các hoạt động bất hợp pháp của mình
mà còn sử dụng lực lượng bảo vệ giàn khoan bao gồm tàu hải cảnh, hải
giám, hải tuần, các tàu dịch vụ, phục vụ cho hạ đặt giàn khoan, đưa tàu
chiến hiện đại: tàu hộ vệ tên lửa, khu trục tên lửa, tuần tiễu tấn công
nhanh, tuần tiễu săn ngầm, tàu quét mìn, tàu đổ bộ. Ngoài ra, Trung Quốc
còn huy động máy bay các loại hoạt động thường xuyên trên vùng giàn
khoan, có máy bay trinh sát, cảnh báo xa, máy bay trực thăng, kể cả máy
bay chiến đấu. Trên các phương tiện truyền thông họ còn có những lời lẽ
vu cáo, xuyên tạc, đổ lỗi cho Việt Nam.
Những gì mà phía cộng sản Việt Nam làm cho tới nay là kiên trì yêu
cầu TQ rút giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam, đưa ngư dân ra biển
làm vật thí mạng và “nếu TQ rút giàn khoan, ngồi vào đàm phán thì Việt
Nam hoan nghênh”!
Ðược xem là mạnh nhất là những tuyên bố của ông Nguyễn Tấn Dũng ở hội
nghị Thượng đỉnh Asean tại Miến Ðiện và nhân chuyến thăm Philippines,
khiến không ít người vội mừng và đặt hy vọng. Nhưng tất cả chỉ là những
món võ miệng, “viển vông”! Trong khi đó Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang
Thanh tại Hội nghị Shangri-La ở Singapore nói rằng “mối quan hệ với
người bạn láng giếng vẫn tốt đẹp.” Ông thủ tướng nói “những gì mà Trung
Quốc đang làm khác rất xa những gì mà Trung Quốc nói,” nhưng những gì
ÐCSVN làm cũng y chang như vậy.
Song song, vấn đề đưa Trung Quốc ra tòa chỉ có thể tranh thủ được sự
chia sẻ, hỗ trợ phần nào của dư luận quốc tế, chứ không thể làm Trung
Quốc thua cuộc, kể cả khi Trung Quốc chịu phán quyết của tòa án, một
điều khó xảy ra. Trên thực tế, bất luận với ngụy biện nào, công hàm của
Phạm Văn Ðồng đã “ghi nhận và tán thành” bản tuyên bố của Trung Quốc
ngày 4 tháng 9 năm 1958, trong đó bao hàm cả chủ quyền của Tam Sa (Hoàng
Sa) và Tây Sa (Trường Sa).
Áp dụng bốn nguyên tắc của estoppel: 1. Thái độ, lời tuyên bố của một
quốc gia nhằm chấp nhận một tình trạng nào đó; 2. Thái độ, lời tuyên bố
đó phải được thể hiện rõ ràng; 3. Thái độ, lời tuyên bố đó phải được
thể hiện liên tục; 4. Khiến cho một hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào đó
mà thay đổi hoạt động hoặc phải chịu thiệt hại; thì quan điểm của Trung
Quốc là Việt Nam không được giải thích khác với những gì mà Việt Nam đã
xác nhận qua Công hàm của Phạm Văn Ðồng. Công hàm Phạm Văn Ðồng có từ
năm 1958 và liên tục, kể cả vào lúc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm
1974, thể hiện đầy đủ bốn nội dung trên.
Chính vì vậy, ông Trần Duy Hải đã thừa nhận, “Các vụ kiện quốc tế đều
phức tạp, nếu tàu Việt Nam kiện tàu Trung Quốc là dân sự thôi. Nhưng
hành động của Trung Quốc ở đây liên quan đến chủ quyền, quyền tài phán,
nên không chỉ là hành động dân sự thông thường. Nên vụ kiện không giải
quyết hết vấn đề. Mọi biện pháp đều nghiên cứu nhưng phải chọn biện pháp
tối ưu.”
Rốt cuộc, tình cảnh hiện nay là do chính nhà cầm quyền Việt Nam tự
đẩy mình vào vũng lầy ý thức hệ, vì tình anh em, tình láng giềng và quốc
tế vô sản mà quên đi những mưu toan dài hạn của Trung Quốc. Tập đoàn
lãnh đạo Hà Nội khó có thể nào dứt ra khỏi vũng lầy này.
Khi hệ thống cộng sản sụp đổ vào những năm 1989-1990, các nước cộng
hòa Baltic Lithuania, Estonia, Latvia, các nước Ðông Âu Ba Lan, Cộng Hòa
Czech, Slovakia, Hugary, Bulgaria, Romania... đều tiếp nhận một nền
kinh tế suy kiệt và phụ thuộc gần như hoàn toàn vào Liên Xô từ nền kinh
tế kế hoạch.
Tuy nhiên, “không có sự thay đổi nào mà không có rủi ro, không có sự
tiến bộ nào mà không có sự hy sinh” (Barack Obama), các dân tộc nhỏ bé
này đã nỗ lực chống chọi với những khó khăn trong cải cách kinh tế, gia
nhập Liên Minh Quân Sự Bắc Ðại Tây Dương NATO, và mức độ hơn kém nhau
khác nhau, nhưng đều đưa đất nước phát triển hơn rất nhiều thời cộng
sản, vượt qua ảnh hưởng của nước Nga khổng lồ.
Mặc dù hoàn cảnh khác nhau, nhưng bài học kinh nghiệm của các quốc
gia nhỏ Châu Âu vẫn rất đáng quý và hiện thực đối với Việt Nam.
Vũng lấy ý thức hệ đã làm cho tập đoàn lãnh đạo Hà Nội lâm vào thế gà
mắc tóc. Bắt tay thân thiện với Trung Nam Hải để kiếm lợi, nhưng khi bị
lấn lướt, bắt nạt thì lại kêu gọi Hoa Kỳ giúp đỡ. Dù xoay trục an ninh
qua Châu Á, liên kết với các đồng minh Nhật, Philippines, Úc... để giữ
thế cân bằng trên biển Ðông nhưng chắc chắn máu của lính Hoa Kỳ chẳng
thể đổ cho một chế độ cộng sản vi phạm nhân quyền. Bản chất gian ngoan,
dối trá và ma mãnh của chế độ cộng sản khó tìm được người bạn chơi hết
lòng.
Cho nên nói “thoát Trung” thì phải thoát Cộng. Phải dứt bỏ ý thức hệ
cộng sản. Chỉ một chính quyền do dân bầu lên qua bầu cử tự do, thực thi
dân chủ pháp quyền, thì mới có đủ mọi tư cách để bác bỏ những sai trái
của nhà nước độc tài toàn trị.
Có thể gặp những khó khăn bước đầu trong tiến trình thay đổi, nhưng
nhất định đất nước sẽ phát triển và thịnh vượng, hội nhập vào cộng đồng
các quốc gia dân chủ trên thế giới, một cộng đồng của các giá trị dân
chủ và nhân quyền phổ quát, trong đó tôn trọng và bảo đảm quyền tự quyết
và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia. Phương trình chỉ có một nghiệm
số duy nhất.