Dương Danh Huy
1. Luận điểm 1 của phía Việt Nam: Công hàm Phạm
Văn Đồng chỉ thừa nhận chủ quyền 12 hải lí của Trung Quốc, mà không hề
thừa nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bời vậy,
về cơ bản, công hàm không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, không đề cập đền
quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Phản luận của Ngô: Đoạn thứ nhất trong “Tuyên bố lãnh hải”,
mà chính phủ Trung Quốc đã công bố vào tháng 9 năm 1958, đã nói rất rõ
rằng, phạm vi bao quát trong 12 hải lí của lãnh hải Trung Quốc là thích
dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó, bao gồm cả quần đảo
Tây Sa và quần đảo Nam Sa.
Công hàm Phạm Văn Đồng đã rất rõ ràng “ghi nhận và tán thành”
với tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì trước hết chính
là thừa nhận và tán thành chủ trương về lãnh thổ của Trung Quốc, bởi vì
chủ trương về lãnh hải có gốc là chủ quyền lãnh thổ, lãnh thổ không tồn
tại thì lãnh hải cũng không có căn cứ.
Công hàm Phạm Văn Đồng không đưa ra bất cứ quan điểm bất đồng hay ý
kiến bảo lưu nào về Tuyên bố Lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì theo
lô-gich, là cho thấy chính phủ Việt nam tán thành với toàn bộ nội dung
của Tuyên bố Lãnh hải do chính phủ Trung Quốc đưa ra, trong đó, có bao
gồm cả chủ trương “quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc”
Bình luận của Dương Danh Huy: Theo luật quốc tế, có 3 điều có thể làm cho một quốc gia mất chủ quyền mình đã có trên một vùng lãnh thổ, đó là
1. Công nhận chủ quyền của nước khác.
2. Gây ra estoppel không cho mình nói ngược lại điều mình đã nói.
3. Bị cho là đã acquiesced.
The luật quốc tế thì để xét CHPVĐ có bị vướng lỗi (1) và (2) hay không, tòa sẽ xét xem CH PVĐ có nói cụ thể
gì về Hoàng Sa, Trường Sa hay không, và nếu có nói thì có phải là trong
văn cảnh TQ và VNDCCH thảo luận về Hoàng Sa, Trường Sa hay không. Luật
quốc tế đòi hỏi hai điều này. Nếu không nói cụ thể mà chỉ có thể bị/được
suy diễn logic thì sẽ không đủ. Nếu nói trong văn cảnh khác với thảo
luận về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa thì cũng sẽ không đủ. Trả
lời cho 2 câu hỏi này dĩ nhiên là “Không”. Điều đó có nghĩa CHPVĐ chỉ có thể vướng lỗi (3), không vướng lỗi (1) hay (2).
Vấn đề ở đây là TQ và Ngô đã mạo nhận và biến lỗi (3) thành lỗi (1),
còn phía VN thì mới chỉ nói 1/2 sự thật khi nói CH PVĐ không vướng lỗi
(1), bỏ qua lỗi (3).
Nếu suy diễn logic bình dân thì dễ có ấn tượng sai lầm là lỗi (3) hay
lỗi (1) thì cũng như nhau, nhưng trong trường hợp đặc thù của VNDCCH,
VNCH, CHMNVN và CHXHCNVN thì lỗi (3) có ít hệ quả hơn lỗi (1). Nếu
VNDCCH mắc lỗi (1) hay (2) thì có thể gây ra nghĩa vụ có tính ràng buộc
pháp lý cho chính thể này, và nếu thế thì khi VNDCCH và CHMNVN thống
nhất lại thành CHXHCNVN, CHXHCNVN sẽ phải thừa kế hai điều đối nghịch
nhau: một bên là nghĩa vụ có tính ràng buộc pháp lý, thừa kế từ VNDCCH,
bên kia là chủ quyền đối với HSTS, thừa kế từ CHMNVN. Sự đối nghịch đó
sẽ đem lại rủi ro nhất định cho lập luận pháp lý của CHXHCNVN.
Nếu VNDCCH chỉ mắc lỗi (3), và sự thật là như thế, lỗi đó chỉ làm cho
VNDCCH mất đi những gì mình có, nếu có, nhưng không gây ra nghĩa vụ có
tính ràng buộc pháp lý cho chính thể này. Do đó, khi VNDCCH và CHMNVN
thống nhất lại thành CHXHCNVN, CHXHCNVN chỉ thừa kế chủ quyền đối với
HSTS từ CHMNVN, không có nghĩa vụ tính ràng buộc pháp lý bất lợi từ
VNDCCH để thừa kế.
2. Luận điểm 2 của phía Việt Nam: Vào thập niên
1950, quan hệ giữa Trung Quốc và nước Mĩ là xấu, hạm đội 7 của hải quân
Mĩ đóng giữ tại eo biển Đài Loan, uy hiếp sự an toàn của Trung Quốc.
Chính phủ Trung Quốc tuyên bố lãnh hải là để cảnh cáo nước Mĩ không được
xâm phạm đến lãnh hải Trung Quốc. Công hàm Phạm Văn Đồng là nghĩa cử
của chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc dựa trên tình hữu
nghị Việt – Trung tốt đẹp, ý nguyện đó không có liên quan đến lãnh thổ.
Phản luận của Ngô: Vào thời gian này, tình hữu nghị
Việt – Trung tốt đẹp là sự thực, nước Mĩ lại là kẻ thù chung của hai
nước Việt – Trung, Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc
tế chính là lí do tình cảm đó. Thế nhưng, trong vấn đề không thể hàm hồ
là giao thiệp về chủ quyền lãnh thế như thế, cứ tự nói “ý nguyện” là thế này thế kia, để mà lật lại câu “ghi nhận và tán thành”
rành rành trên giấy trắng mực đen, thì trong quan hệ quốc tế vốn trọng
chứng cớ văn bản, sẽ không được người ta tin tưởng và công nhận đâu!
Bình luận của Dương Danh Huy: Đúng là luận điểm 2
của Việt Nam riêng nó không hoàn toàn bác bỏ được lập luận của Trung
Quốc, và phản biện của Ngô chính xác về một số khía cạnh. Nhưng phản
biện của Ngô cũng chỉ nói một phần của sự thật. Phần kia của sự thật là
luận điểm 2 của Việt Nam cũng có giá trị pháp lý như sau.
The luật quốc tế thì để xét CHPVĐ có bị vướng lỗi (1) và (2) hay
không, tòa sẽ xét xem CH PVĐ có nói cụ thể gì về Hoàng Sa, Trường Sa hay
không, và nếu có nói thì có phải là trong văn cảnh TQ và VNDCCH thảo
luận về Hoàng Sa, Trường Sa hay không. Lập luận 2 của Việt Nam nói lên
điều văn cảnh của CH PVĐ là “hải quân Mĩ đóng giữ tại eo biển Đài
Loan, uy hiếp sự an toàn của Trung Quốc ... Công hàm Phạm Văn Đồng là
nghĩa cử của chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc” chứ
không phải là thảo luận về Hoàng Sa, Trường Sa giữa VNDCCH và TQ. Như
thế, lập luận đó có tác dụng góp phần chứng minh CH PVĐ không vướng lỗi
(1) và (2).
Vấn đề ở đây là phía Việt Nam có người dùng luận điểm (2) một cách
quá mức luật quốc tế cho phép, trong khi Ngô thì cũng bác bỏ ý nghĩa của
nó một cách quá mức luật quốc tế cho phép.
3. Luận điểm 3 của phía Việt Nam: Lúc đó, Việt Nam
đang ở vào giai đoạn chiến tranh, Trung Quốc là nước viện trợ chính cho
Việt Nam, để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận
Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc.
Phản luận của Ngô: Cách biện luận này có ngầm ý sau:
nếu không ở vào hoàn cảnh chiến tranh, nếu không cần sự viện trợ của
Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung
Quốc, không phát sinh (sự kiện) công hàm Phạm Văn Đồng. Thế nhưng, loại
biện luận như thế này chỉ là miêu tả lại một sự thực đã xảy ra, không
thể, dù một chút xíu, phủ định được hiệu lực của công hàm Phạm Văn Đồng.
Thêm nữa, không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã
lợi dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung
Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa
nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Bản thân công hàm đã gửi cho
chính phủ Trung Quốc và nội dung của nó cho thấy: tất cả đều là quyết
định tự chủ tự nguyện của chính phủ Việt Nam.
Nói ngược lại, giả như ở vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh
thổ Việt Nam, thì từ lập trường dân tộc chủ nghĩa vững chắc và nhất quán
của người Việt Nam, chính phủ Phạm Văn Đồng sẽ không gửi công hàm đó
cho Trung Quốc, hoặc chí ít thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và
quần đảo Nam Sa ra bên ngoài.
Lại thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm 1975, trong nhiều
trường hợp (nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản đồ, sách
giáo khoa), Việt Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam
Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa
nhận trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam
Sa thuộc lãnh thổ vốn có của Trung Quốc chính là cách suy nghĩ thực sự
của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bình luận của Dương Danh Huy: Đúng là luận điểm 3 “của Việt Nam” là vớ vẩn. Nhưng theo tôi hiểu thì Việt Nam không chính thức có luận điểm “để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc”,
mặc dù có thể có cá nhân suy diễn như thế. Tôi cho rằng Ngô đang dựng
người rơm lên chém. Nhưng người Việt cũng nên lưu ý không nên dùng luận
điểm vớ vẩn này.
4. Luận điểm 4 của phía Việt Nam: Ở thời điểm đó
(1954-1958), căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ thì, quần đảo Tây Sa và
quần đảo Nam Sa đều thuộc phạm vi quản lí của nước Việt Nam Cộng hòa
(miền Nam Việt Nam), tranh chấp lãnh thổ là giữa Trung Quốc và chính
quyền Việt Nam Cộng hòa, chính quyền miền Bắc là bên thứ ba ở ngoài
không liên quan đến tranh chấp, chính quyền miền Bắc không có quyền xử
lí đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa, vì vậy, công hàm Phạm Văn
Đồng không có giá trị.
Phản luận của Ngô: Trước năm 1975, tức là trước khi
chính quyền miền Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc,
miền Bắc một mực tuyên bố mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy
nhất cho Việt nam, và gọi chính quyền miền Nam là “bù nhìn”, là “chính quyền ngụy”
phi pháp, cần phải tiêu diệt. Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một
số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều
thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía
Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính
quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc,
hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh). Trung Quốc là nước đầu
tiên trên thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể chối cãi
đó, chính phủ Việt Nam hiện nay chính là nhà nước kế tục của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây, sau khi chiến thắng và thống nhất hai
miền Nam Bắc, lẽ ra phải giữ vững chuẩn tắc cơ bản trong quan hệ quốc
tế, cũng tức là tín nghĩa cho nền chính trị của quốc gia, giữ vững lập
trường quốc gia trước sau như một, đằng này, tại sao lại vì lợi ích vốn
không nên có, mà “qua cầu rút ván”, bội tín phản nghĩa?!
Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa”
lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính
quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước
đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền
Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo
Nam Sa.
Bình luận của Dương Danh Huy: Nhiều người (kể cả Ngô) lẫn lộn chính phủ/chính quyền với quốc gia. Việc lãnh đạo VNDCCH nói chính phủ VNCH là “Ngụy”, “Bù nhìn”
là một động thái chính trị. Nó không có nghĩa VNCH không phải là một
quốc gia. Theo Công ước Montevideo, việc VNCH có phải là một quốc gia
hay không không tùy thuộc vào lãnh đạo VNDCCH nói chính phủ VNCH là gì.
Cũng theo Công ước này, việc TQ công nhận VNDCCH không có nghĩa
QGVN/VNCH không phải là một quốc gia.
Khi CPCMLT CHMNVN ra đời thì VNDCCH đã chính thức đã công nhận chính
thể đó là đại diện pháp lý duy nhất cho miền Nam, tức là đã chính thức
công nhận CHMNVN là một quốc gia khác với VNDCCH.
Không những thế, TQ cũng đã công nhận CPCMLT CHMNVN, tiếp nhận ngoại
trưởng của CP đó, tức là đã công nhận miền Nam là một quốc gia khác với
miền Bắc.
Việc TQ công nhận CPCMLT CHMNVN, cũng như TQ đã công nhận sự thống
nhất là do hiệp thương thống nhất giữa hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN năm
1976, chứ không phải do VNDCCH xâm lăng VNCH/CHMNVN, đã bác bỏ ý kiến
của Ngô cho rằng “việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền
Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên
xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của
bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục
của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người
kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với
quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.”
5. Luận điểm 5 của phía Việt Nam: Căn cứ theo Hiệp
định Giơ-ne-vơ, chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều là
chính quyền lâm thời, cần phải có cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc mới
có thể đưa đến một chính quyền hợp pháp. Trong tình trạng chưa có được
chính phủ hợp pháp thông qua tổng tuyển cử trên toàn quốc, chính quyền
lâm thời không có quyền quyết định vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Bởi vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.
Phản luận của Ngô: Tháng 7 năm 1954, các nước tham
dự Hội nghị Giơ-ne-vơ đã kí Hiệp định đình chiến cho Việt Nam, trong
Hiệp định có qui định rằng “thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền Nam Bắc”.
Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lí do rằng hiệp định này được kí
kết dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến lợi ích
của Việt Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho nên ngay
từ đầu đã không muốn tuân thủ hiệp định. Tiến triển lịch sử về sau này
cũng cho thấy cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không
hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc
thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa thuận
làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu”
mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc
gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ.
Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định, không còn sức thuyết phục nữa.
Bình luận của Dương Danh Huy: Luận điểm này của Ngô, “cả
hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở
thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai
đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội,
chính phủ và các cơ quan bộ”, ủng hộ quan điểm VNCH và VNDCCH là
hai quốc gia, và như thế thì VNCH sẽ là quốc gia có thẩm quyền lãnh thổ
với HSTS, VNDCCH không có. Tức là phản biện này của Ngô ủng hộ phản biện
của Việt Nam dựa trên luận điểm “hai quốc gia”.
6. Luận điểm 6 của phía Việt Nam: Theo nguyên
tắc của hiến pháp, tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà chính
phủ đưa ra đều phải có được phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu lực.
Công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội để được phê chuẩn, cho
nên không có hiệu lực về pháp luật.
Phản luận của Ngô: Có học giả Việt Nam cho rằng đây
là chỗ quan yếu nhất để chứng minh công hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do
đó, đây cũng là lí do không thể bác bỏ. Thế nhưng, ở bài này, tôi cho
rằng, sự việc thảy đều không chắc như đinh đóng cột như họ nói đâu, có
thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich pháp luật, sự thực lịch sử....
Bình luận của Dương Danh Huy: Luận điểm này của phía
Việt Nam là luận điểm sai lầm, không phù hợp với luật quốc tế, và người
Việt nên bỏ nó. Tự loại bỏ bới những luận điểm không đứng vững được sẽ
giúp chúng ta thấy cần tập trung vào lập luận có thể đứng vững được.
Dương Danh Huy